TẢN MẠN VỀ DANH GIA LẪY LỪNG SÀI THÀNH MỘT THUỞ

(Nguoiduatin.vn) – Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Sài Gòn nổi lên bốn nhà cự phú, giàu có nức tiếng. Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn là giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và cả Đông Dương. Bởi thế mới có câu: Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xương, tứ Định truyền tụng cho đến mãi ngày nay.

(Nguoiduatin.vn) – Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, ở Sài Gòn nổi lên bốn nhà cự phú, giàu có nức tiếng. Họ không chỉ giàu nhất Sài Gòn mà còn là giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và cả Đông Dương. Bởi thế mới có câu: Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xương, tứ Định truyền tụng cho đến mãi ngày nay.Nhân vật số một- Huyện Sĩ  chính là ông ngoại Nam Phương hoàng hậu. Ngày nay, nếu có dịp đi qua góc đường Tôn Thất Tùng  – Nguyễn Trãi (Q.1, TP.HCM), bạn sẽ thấy tọa lạc ở đây là một nhà thờ uy nghiêm, cổ kính. Đó là nhà thờ giáo họ Chợ Đũi. Tuy nhiên dân gian vẫn quen gọi là Nhà thờ Huyện Sĩ nhằm tưởng nhớ người đã bỏ 1/7 gia sản của mình ra để xây dựng và cung tiến. Dần dần tên gọi Nhà thờ Huyện Sĩ trở thành tên gọi chính thức của ngôi thánh đường này.

Cảm nhận về một Sài Gòn xưa cổ kính mà vẫn rất hiện đại

Tiểu sử của Huyện Sĩ đến nay vẫn còn khá giản lược nhưng di sản và tiếng tăm của một dòng họ trâm anh thế phiệt đến nay vẫn lưu truyền. Huyện Sĩ tên thật là Lê Phát Đạt (1841-1900), thuở nhỏ có tên là Sĩ. ông sinh tại Cầu Kho (Sài Gòn) nhưng quê quán ở Tân An (Long An) trong một gia đình theo đạo Công giáo, tên thánh là Philipphê. Do vậy, ông được các tu sĩ người Pháp đưa sang du học ở Pénang (Malaysia). Tại đây, Sĩ được học các ngôn ngữ: La Tinh, Pháp, Hán và Quốc ngữ (chữ Việt mới sơ khai).

Do trùng tên với một người thầy dạy nên Sĩ đổi tên thành Lê Phát Đạt. Khi về nước, Lê Phát Đạt được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi làm ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (từ năm 1880). Tuy nhiên, dù đã đổi tên nhưng bà con lối xóm vẫn gọi ông bằng cái tên cúng cơm: Sĩ.

Theo học giả Vương Hồng Sển trong Sài Gòn năm xưa (NXB TP.HCM, 1991) cái sự lên hương của Lê Phát Đạt chẳng qua là ăn may. Tương truyền buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác. Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận, giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đấu giá (Hồi Tây qua, nghe nói lại, những chủ cũ đều đồng hè bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo Pháp. Vả lại, cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui. Chừng đó ai về chỗ nấy, hấp tấp làm chi cho mang tội).

Không dè bởi đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội đồng Thành phố, ủy ban Điền thổ rồi đưa nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những ủy viên bản xứ nhận là của mình: “ùy (Oui) một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói Nông (Non) cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “ùy”, “Nông” mà có ông lập nghiệp truyền tử lưu tôn. Trận bão năm Giáp Thìn (1904), đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức (mà có ai thèm đâu). Thế rồi, nài ép ông, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều. Nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu hụ.

Tương truyền ngôi nhà lầu đồ sộ của Huyện Sĩ tại Tân An (nằm gần ngã ba sông Tân An và Bảo Định) được cất trên thế đất hàm rồng nên gia đình ông trở nên giàu có, danh vọng bậc nhất thời đó. Nhiều tài liệu nói rằng khi đang xây nhà thờ Chợ Đũi (tức nhà thờ Huyện Sĩ), theo yêu cầu của giáo dân vùng Bảy Hiền, người ta đã cắt bớt một gian giữa của nhà thờ này để lấy tiền đó xây nhà thờ Chí Hòa. Con trai của Huyện Sĩ là kỹ sư Lê Phát Thanh cũng bỏ tiền ra xây nhà thờ Hạnh Thông Tây (góc Quang Trung – Lê Văn Thọ, Gò Vấp, TP. HCM). Tất cả những ngôi nhà thờ này đều xây trên đất của Huyện Sĩ. Ngày nay, nếu đi bằng xe máy từ nhà thờ Huyện Sĩ đến nhà thờ Hạnh Thông Tây phải mất gần một tiếng, đủ thấy lãnh thổ của Huyện Sĩ mênh mông chừng nào.

Huyện Sĩ mất năm 1900. Hai mươi năm sau vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài cũng tạ thế. Người ta đưa xác hai ông bà vào chôn ở gian sau cung thánh nhà thờ Huyện Sĩ như một nhà mồ. Người viết đã may mắn quen biết với một người là thành viên của Hội đồng giáo xứ nhà thờ Huyện Sĩ nên đã nhờ ông dắt vào tận nơi (đây là khu vực đặc biệt, không phải ai muốn vào cũng được).

Phía bên trái là tượng bán thân bằng thạch cao của ông Huyện Sĩ, kế đến là phần mộ bằng đá cẩm thạch được trang trí hoa văn (nghe nói là chôn nổi). Trên mộ là tượng toàn thân của ông Huyện Sĩ (cũng bằng đá cẩm thạch) nằm kê đầu lên hai chiếc gối, đầu chít khăn đóng quay mặt về phía cung thánh, mình mặc áo dài gấm có hoa văn rất tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày.

Phía bên phải, ở những vị trí đối xứng là tượng bán thân của vợ ông bà Huỳnh Thị Tài (1845-1920), rồi đến mộ và tượng toàn thân của bà: Búi tóc, cũng nằm kê đầu lên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu của ông bà là Lê Phát Thanh (bên trái) và Đỗ Thị Thao (bên phải)…

Đứng bên phần mộ của những con người đã từng có một thời giàu có và tiếng tăm nhất nước này, mới thấy kiếp người phù sinh. Tuy nhiên, phải thừa nhận phần mộ có tạc tượng của ông bà Huyện Sĩ xứng đáng là công trình nghệ thuật tuyệt tác.

Con gái lấy vua

Không chỉ có thế, các con của Huyện Sĩ như bà Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương hoàng hậu), Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười. Riêng trưởng nam của Huyện Sĩ là Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương, là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là hoàng thân, quốc thích được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình (vương, công, hầu, bá, tử, nam). Năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái về Huế làm Hoàng hậu, Lê Phát An đã tặng cho Nguyễn Hữu Thị Lan 1 triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn (1 triệu đồng lúc bấy giờ giá vàng khoảng 50 đồng/lượng, vị chi món quà này tương đương 20.000 lượng vàng  NV). Gia đình Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương hoàng hậu, rể của Huyện Sĩ) giàu hơn Bảo Đại. Trong đời làm vua của mình, vị hoàng đế thích ăn chơi Bảo Đại xài tiền của vợ nhiều hơn của hoàng gia.

Hà Đình Nguyên (TN)

(Theo Người đưa tin)

TẢN MẠN VỀ ASEAN QUA NHỮNG CHUYẾN ĐI

(TBKTSG) – Trong năm qua, tôi lại được dịp tới nhiều nước châu Á, đặc biệt là hầu hết các nước ASEAN. Nhiều nước hơn mười năm qua tôi đã không có dịp trở lại. Malaysia là một, Myanmar là hai. Và cả Trung Quốc cũng như Indonesia rất nhiều năm rồi tôi mới được dịp trở lại.

(TBKTSG) – Trong năm qua, tôi lại được dịp tới nhiều nước châu Á, đặc biệt là hầu hết các nước ASEAN. Nhiều nước hơn mười năm qua tôi đã không có dịp trở lại. Malaysia là một, Myanmar là hai. Và cả Trung Quốc cũng như Indonesia rất nhiều năm rồi tôi mới được dịp trở lại.

 

Tòa nhà Phủ thủ tướng ở Putrajaya, thủ đô hành chính mới của Malaysia.

Tất nhiên ấn tượng nhất về sự thay đổi vẫn là Trung Quốc. Nhiều bạn bè, người quen đã về hưu, tóc cũng bạc thêm. Nhưng cũng có những người trẻ hồi xưa giờ đã lên nắm những chức vụ then chốt, kể cả trở thành lãnh đạo trong ngành thống kê.

Có những nước tôi ở cả tháng, có những nước chỉ một hai tuần, thậm chí vài ngày, chưa đủ để biết rõ về những biến chuyển xã hội nhưng khá đủ để biết về một thực thể gọi là ASEAN, tổ chức 10 nước Đông Nam Á mà theo lộ trình định sẵn kéo dài từ 1992, sẽ giảm thuế nhập khẩu hàng hóa có nguồn gốc giữa các nước trong khối xuống 0-5%, và xuống 0% giữa sáu nước thành viên kỳ cựu vào năm 2010. Điều này xem như sẽ đạt được.

Ít nhất do sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn về mặt kinh tế, việc đi lại của công dân các nước ASEAn không còn cần thị thực nhập cảnh, trừ Myanmar. Lần đầu tiên tôi cảm thấy tấm hộ chiếu Việt Nam cầm trong tay thực sự có giá trị. Trừ Myanmar, tôi không cần qua các sứ quán xin thị thực nhập cảnh, vừa nhiêu khê và lại tốn tiền lệ phí.

Đi lại giữa các nước thành viên không cần thị thực nhập cảnh là một bước tiến khó tưởng tượng được khi các nước còn thù nghịch và nghi ngờ lẫn nhau đến tận cuối những năm 1990, và hiện nay cũng chưa hết, như đang tồn tại giữa Thái Lan và Campuchia.

Tháng bảy năm ngoái, theo yêu cầu của Ban thư ký ASEAN, tôi đã được sự tài trợ của USAID làm một chuyến đi bảy nước ASEAN để đánh giá và làm một cuộc vận động tổ chức cuộc họp hàng năm về thống kê khu vực, với mục đích tạo khung hoạt động để các nước ASEAN giúp đỡ lẫn nhau về mặt thống kê kinh tế. Đây là sự hợp tác đã đạt được ở Liên hiệp châu Âu, ở nhóm các nước Hồi giáo và ở nhóm các nước Nam Mỹ. Các nước ASEAN sau đó có cuộc họp phê chuẩn kế hoạch nhưng qua một năm vẫn chưa có động thái thực hiện.

Cái khó hiện nay là có những nước rất giàu, hoặc có lực tài chính lớn vì đông dân; có nước lại rất nghèo và ít dân, khó có thể tham gia toàn bộ các cuộc họp, hay các hoạt động nhằm gắn bó các hoạt động của nhóm nước này. ASEAN hiện nay vẫn chưa có hình thức tổ chức quỹ chung để tài trợ hoạt động của những nước thiếu khả năng tài chính, và một lý do nữa cũng không kém quan trọng là ngay cái nhìn gắn bó mang tính chiến lược giữa các nước ASEAN cũng chưa có.

Chừng nào chưa xác định được lợi ích chung của toàn khối các nước ASEAN, và chừng nào các nước này chưa sẵn sàng cùng chung sức bảo vệ “thương hiệu” ASEAN thì chừng đó tổ chức ASEAN sẽ chỉ là cái diễn đàn để nước lớn sử dụng.

Malaysia

Tôi đã ở Malaysia hơn một tháng rưỡi. Làm việc gần một tháng và du lịch gần một tháng. Hình như vấn đề xã hội ở đây nóng hơn trước, mạch ngầm mâu thuẫn dân tộc mạnh hơn trước, mặc dù đã có chính sách mới nới rộng hơn chính sách “chỉ tiêu” trong việc phân phối theo tỷ lệ dân tộc (Mã Lai, Hoa, Ấn) số sinh viên được nhận vào trường đại học công và số người giữ các chức vụ quan trọng trong chính phủ và số hợp đồng của nhà nước. Chính trị gia gốc Hoa đã hợp tác với các đảng phái Mã Lai, hoạt động đối đầu với liên minh nắm chính quyền hiện nay.

Xã hội Malaysia đã mở rộng hơn, việc thiết lập nhiều trường đại học tư đã cho phép người Hoa và người Ấn không vào được trường công vì chính sách chỉ tiêu đã có cơ hội thăng tiến. Kinh tế Malaysia có thể nói là phát triển nhất trong khu vực, không kể Singapore nhỏ bé, một quốc gia thành phố dễ dàng quản lý hơn, cũng không tránh khỏi khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Trước đây Malaysia đã phải cần đến lao động tay chân của nhiều nước chung quanh, từ Indonesia đến Bangladesh và cả Việt Nam. Thất nghiệp đã tạo ra những người lang thang, gây ra tội ác và tác động đến cái nhìn với những người trong khu vực.

Tôi được dịp đến thăm Ipoh, Malacca và Penang, và được dịp gặp các công nhân Việt Nam làm việc tại đó, và kể cả những chị em người Việt kết hôn với người Malaysia mà không nói nổi một câu tiếng Anh. Một số chị em làm việc cho một công ty làm găng tay cao su dùng trong y tế ở chung với nhau hơn chục người trong một căn nhà khang trang.

Họ kể với tôi họ đi làm, thường kéo dài đến 10 tiếng rồi về nấu ăn chung và để dành tiền gửi về gia đình. Cuộc đời ba năm hợp đồng chỉ có thế. Không có cơ hội học một vài chữ tiếng Anh. Thế mà có khi trên đường đi về nhà họ cũng bị chặn đánh lột tiền. Một gia đình người Mã Lai thân quen với tôi cả chục năm trước, cũng có người trong gia đình bị chặn giết lột tiền trên đường về nhà. Mà đây là ở khu vực có mức sống cao hơn mức trung lưu.

Sông Malacca, Malaysia..

Cái nhìn thiện cảm về người lao động nước ngoài mất đi rất nhiều. Trước đây, khi tôi đến Malaysia, người ta nhìn người Việt như những anh hùng, giỏi giang, đáng nể. Bây giờ khi tiếp xúc với nhiều người lao động, hình như người ta nhìn người Việt khác đi nhiều. Chính sách xuất khẩu lao động đã giúp nền kinh tế Việt Nam đỡ khó khăn và mở lối thoát cho bế tắc kinh tế trong nước không vì lý do gì phải ngăn chặn, nhưng chính sự phát triển không từ nội lực này cũng không phải là lối thoát, để tạo ra lòng tự tin dân tộc.

Trong lúc trà dư tửu hậu, những người bạn thân quen Philippines đã nói với tôi, Philippines đã từng là quốc gia phát triển nhất châu Á, không tiến được cũng vì đã phải chấp nhận con đường này, đó là chưa kể Philippines đã liên tục chảy máu chất xám, sáng sủa nhất là làm chuyên gia cho các tổ chức quốc tế.

Cũng vừa qua Mông Cổ làm việc, rõ ràng tôi thấy sự tự tin của họ. Chế độ cộng sản không còn, nhưng Đảng Cộng sản lại đắc cử, trở lại chính trường nắm quyền. Không nhìn thấy đâu một chữ tiếng Hoa ở Ulan Bator. Ngay chữ tiếng Anh cũng hiếm. Người Mông Cổ phải nói là cố gắng hết sức tự nguyện tham gia, vừa học hỏi, vừa tạo vai trò trong các hoạt động thống kê, ít nhất là ở châu Á. Tôi và nhiều người đã có cái nhìn rất khác về người Mông Cổ. Một nước đang vươn lên nhằm khẳng định mình.

Việt Nam hình như đang rơi vào cái bẫy như Philippines. Không ít trí thức trẻ tuổi trong nước cũng tìm đường mưu sinh và thăng tiến ở nước ngoài.

Trở lại Malaysia, nơi tôi đã nhiều năm bỏ công xây dựng một phần thống kê kinh tế cho họ, xúc động vì sau hơn mười năm họ vẫn nhớ đến việc làm của tôi, đón tiếp như một người bạn. Trở lại như thế tôi có thể nhanh chóng nắm bắt vấn đề, điều hành việc thực hiện điều họ cần. Liên minh cầm quyền ở Malaysia đã mất quyền ở một vài bang cho nên vấn đề phát triển kinh tế đồng đều được đặt ra và thế là họ cần tính toán GDP của từng bang.

Và đó là lý do tôi đã làm việc liên tục, ngồi cùng một phòng, ngày 8 tiếng, với một nhóm chuyên viên khoảng 10 người, lúc làm chung, lúc làm riêng, thử nghiệm và thiết lập hệ thống tính GDP cho từng tỉnh, hoàn thành công việc trong một tháng. Đây là một hướng thực hiện đúng đắn, thay vì để từng bang tự tính và tự thổi phồng, nâng thành tích như đã xảy ra ở Việt Nam và Trung Quốc.

Một số nguyên tắc tính toán đã được tranh luận, thảo luận với tổ kế hoạch kinh tế trong văn phòng Thủ tướng và đi đến quyết định khá nhanh chóng. Thí dụ bang Teranggnu là bang nghèo nhất ở Malaysia, nhưng nếu tính khai thác dầu hỏa thì bang này lại có thu nhập đầu người cao nhất Malaysia.

Vậy thì tính như thế nào? Tôi hỏi vậy thu nhập dầu hỏa đi về đâu? Vào tay Petronas là công ty dầu hỏa quốc gia hay vào ngân sách chính quyền bang? Đại diện Petronas trả lời là hoàn toàn thuộc về chính quyền trung ương. Như thế đây là một hoạt động kinh tế thuộc chính quyền trung ương, chứ đâu thuộc bang. Nếu tính vào thu nhập của bang sẽ chẳng khác gì đem kết quả hoạt động của dầu khí ngoài khơi Việt Nam ghép vào Bà Rịa – Vũng Tàu hay TPHCM, hay sau này ghép khai thác bauxite vào Tây Nguyên. Đây chỉ là một trong nhiều vấn đề cần giải quyết để tính GDP cho bang hay tỉnh.

Lào

Khi đến Lào làm việc một tháng, ngoài nội dung chính, tôi cũng được yêu cầu giải quyết một vấn đề tương tự. Dĩ nhiên Lào ở mức thấp hơn vì số liệu thống kê chưa được thu thập trên cơ sở từng tỉnh như ở Malaysia. Nhưng người Lào rất ấn tượng về Việt Nam là đã có GDP từng tỉnh và yêu cầu chính trị là thiết lập chúng. Tôi có góp ý, các bạn chắc không muốn lặp lại kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc là GDP tỉnh nào cũng tăng khoảng 10% một năm nhưng GDP cả nước thì chỉ 7-8%

Tượng và phù điêu ở một ngôi chùa tại Vientiane, Lào.

Lào là một quốc gia có truyền thống hữu nghị lâu đời với cách mạng Việt Nam. Rất nhiều người đã được gửi sang Việt Nam học từ bé, và gần đây dù không lớn lên trong môi trường Việt Nam thì cũng thường xuyên được sang Việt Nam học ngắn ngày hoặc tham quan. Nhiều người trong cấp lãnh đạo nói tiếng Việt rất sõi.

Luang Prabang là một tỉnh tôi nghe tiếng từ lâu, lần này mới được đến thăm và làm việc. Đây có thể là một tỉnh kiểu mẫu, phát triển mà vẫn có ý thức bảo vệ môi trường và di tích lịch sử. Đường sá sạch sẽ hơn hẳn Vientiane, nơi mặc dù không có rác, nhưng đầy bụi bặm. Ít có một tỉnh nào ở châu Á còn sót lại như vậy. Nhiều khu rừng bạt ngàn được trồng. Những công viên thác nước được xây dựng với ý thức bảo vệ thiên nhiên. Có lẽ Việt Nam cần sang học người Lào thay vì ngược lại. Thế mà lãnh đạo ở đây đều học từ Việt Nam.

Ông phó chủ tịch tỉnh và nhiều quan chức mà tôi gặp nói tiếng Việt thông thạo. Nhưng điều này tôi sợ cũng khó dài lâu. Người Trung Quốc đã xâm nhập khá sâu vào Lào. Ở Vientiane có thể tìm thấy rất nhiều tiệm ăn tàu hoành tráng, nhưng gần như không tìm ra một tiệm ăn Việt Nam nào có thể sánh kịp. Tất nhiên người Lào vẫn thích ăn phở, phở Lào có lẽ bắt nguồn từ Việt Nam nhưng đã được biến chế mang hương vị Lào. Ở thủ đô, chỉ có một tiệm phở Việt Nam là Yep, rất đông người ăn. Ngay trung tâm thành phố, còn có một trung tâm thông tin về Việt Nam nhưng quả thực không có gì để coi hoặc để hỏi. Cái nữa mà quan chức Lào ở trung ương hơn hẳn Việt Nam là họ nói tiếng Anh rất tốt. Tôi làm việc với Cục Thống kê Lào bằng tiếng Anh mà không cần thông dịch. Buổi thuyết trình ở Bộ Kinh tế Kế hoạch cũng không cần thông dịch.

Myanmar

Myanmar là nước trong cả chục năm nay bị cô lập. Sự cô lập này đã đẩy Myanmar chỉ còn một đối tác duy nhất: đó là Trung Quốc. Theo tin tình báo thì Trung Quốc đã xây dựng một cảng quân sự ở miền Nam Myanmar, mở đường vào Ấn Độ Dương. Đây cũng là lý do Mỹ không thể mãi cô lập họ. Và đây cũng là lý do tôi được dịp trở lại Myanmar, trong một chương trình của Liên hiệp quốc gọi là tạo sự hữu hảo với chính quyền Myanmar.

Ngay cả thủ đô mới Nay Pyi Taw (thành phố của vua) cũng hoàn toàn cô lập với nội địa Myanmar, một phần nghe nói để không làm tăng mức dân của Yangon, thủ đô cũ, nhưng một phần không nhỏ là triệt tiêu hoàn toàn ảnh hưởng của sự chống đối nếu có. Thủ đô mới nằm trong một thung lũng lớn, trước đây là rừng, đã bị đốn sạch, được nối với Yangon bằng một xa lộ, đổ bê tông, ít nhất là 4 làn xe, nhưng nhiều nơi là 8 làn xe, chạy bon bon phải mất hơn 4 tiếng lái xe.

Một ngôi chùa ở Yangoon, Myanmar.

Trên đường, cả lần đi tới và về tôi chỉ thấy vài chiếc xe hơi. Con đường đi qua khu vực gần như không có dân cư. Một cảnh tượng rất siêu thực. Thủ đô cũng chỉ có một số nhà cao tầng dành cho viên chức, rải rác trên vài con đường nhỏ hơn từ một đại lộ chính. Có một vài khách sạn rất lớn, gồm những ngôi nhà riêng lẻ, nhìn ra hồ nhân tạo, hoành tráng, gần như chỉ dành cho những người đi công tác, nhiều ngày chỉ có tôi và một hai người nữa là khách trú.

Lác đác ở thủ đô là một vài nơi có người, có tiệm ăn. Nhưng đi tới nơi cũng mất 15 phút hoặc nửa tiếng lái xe từ khách sạn tôi ở. Đi từ cơ quan này đến cơ quan khác thì không thể không có xe hơi. Có thể nói, đây là một thành phố đầy bê tông và chưa có người. Trong một bữa ăn được mời vì tôi là khách ở quá lâu, ông giám đốc quản lý khách sạn nói với tôi, nhiệm vụ của ông ấy là làm sao giảm lỗ tới mức thấp nhất.

Hai tuần lễ huấn luyện, ăn trưa hàng ngày với 20 chuyên gia cấp cao ở Bộ Kế hoạch, ngân hàng, tài chính và một số giáo sư đại học, tôi nhận thấy là Myanmar vẫn còn nhìn người Việt như những anh hùng. Ảnh hưởng của Trung Quốc có thể chỉ ở cấp lãnh đạo tối cao chứ không lan đến quan chức và người dân.

Cuộc xung đột nhằm nắm quyền kiểm soát người thiểu số ở vùng biên giới với Trung Quốc đang gây căng thẳng giữa hai nước. Myanmar là thành viên của ASEAN nhưng hình như họ là một thành viên cô lập. Và có lẽ họ sẽ bỏ phiếu cho những người không cô lập họ. Ở vị thế chủ tịch ASEAN năm 2010, việc giúp Myanmar và Mỹ đạt tới những hiểu biết để hai bên từ bỏ chính sách đối nghịch sẽ làm tăng vai trò của Việt Nam trong việc xây dựng uy thế cho ASEAN. Và tất nhiên là lợi ích mang đến cho Việt Nam không phải là nhỏ.

Trung Quốc

Một năm qua tôi đã bốn lần đi Bắc Kinh. Có lúc tôi đã có ý định sang Bắc Kinh dạy học theo lời mời của một trường đại học ở đó. Cũng đã bỏ công hai năm, rị mọ học chữ Hán, nhưng rồi phải suy nghĩ lại vì một sự kiện. Đó là bài viết của tôi trên Vietnamnet về yêu sách phi lý của Trung Quốc, coi vùng biển trong đường lưỡi bò, chiếm tới 80% Biển Đông là lãnh hải của họ. Điều này hoàn toàn không phù hợp với luật biển Liên hiệp quốc.

Một anh bạn người Trung Quốc đã báo cho tôi biết là có điện thoại thẳng từ Trung Quốc nói là không hài lòng với bài viết. Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Anh ấy trả lời là đó là vì bài viết đã được dịch ra tiếng Trung. Tôi nói mục đích bài viết không phải là để chống Trung Quốc, mà là để kêu gọi đi đến một giải pháp mà mọi người ở châu Á và các nước đang có quyền đi lại tự do trong vùng biển này có thể chấp nhận được.

Đường dẫn lên chiếc cầu bắc qua sông Hoàng Phố, Thượng Hải, Trung Quốc.

Một giải pháp tốt đẹp hợp lý dựa trên luật quốc tế sẽ đương nhiên nâng vai trò lãnh đạo trong khu vực của người Trung Quốc. Còn không sẽ tiềm ẩn một cuộc tranh chấp có thể đi đến chiến tranh mà không ai được lợi. Phản ứng của Trung Quốc như thế làm tôi tưởng sẽ không còn được thị thực vào Trung Quốc làm việc trong chương trình của họ. Nhưng họ đã không làm điều đó.

Trung Quốc có một chính sách khá rõ là gậm nhấm và đe dọa, gây cho đối phương sợ hãi về sức mạnh của họ, không cần đánh nhưng đòi được nhượng bộ và sẵn sàng cho mượn tiền đầu tư, để quyền lợi của nước sở tại gắn chặt vào lợi ích của Trung Quốc. Tất nhiên nước lớn nào muốn bá chủ cũng làm thế. Có chăng nước lớn khác còn có nguyên tắc ứng xử minh bạch.

Dùng tiền viện trợ dưới hình thức cho vay có lẽ là nguyên nhân đưa Philippines tới việc ký kết cùng hợp tác nghiên cứu địa chấn trong khu vực thỏa thuận ở Biển Đông. Việc thỏa thuận này ngầm công nhận Trung Quốc có quyền lợi rộng rãi ở Biển Đông, đồng thời đẩy Việt Nam vào thế chấp nhận tham gia. Nhưng nghiên cứu địa chấn ấy lại cũng xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Phản đối mãnh liệt từ nghị viện Philippines, đã làm thỏa ước này không thể tiếp tục.

Vũ Quang Việt

(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)

TẢN MẠN VỀ LUẬT PHÁP, HÀNH PHÁP, ĐẠO LÝ VÀ VĂN MINH

Bốn phạm trù luật pháp, hành pháp, đạo lý và văn minh luôn có liên hệ rất mật thiết với nhau. Luật pháp không nghiêm minh thì xã hội sẽ sinh loạn, nhưng dù văn bản luật pháp có nghiêm mà hành pháp không nghiêm thì xã hội cũng loạn. Xã hội nhiễu loạn thì đạo lý càng có nguy cơ suy đồi, càng thiếu văn minh. Một khi đạo lý suy đồi thì xã hội dễ sinh loạn, luật pháp lại dễ bị coi thường, dễ thiếu văn minh…

Bốn phạm trù luật pháp, hành pháp, đạo lý và văn minh luôn có liên hệ rất mật thiết với nhau. Luật pháp không nghiêm minh thì xã hội sẽ sinh loạn, nhưng dù văn bản luật pháp có nghiêm mà hành pháp không nghiêm thì xã hội cũng loạn. Xã hội nhiễu loạn thì đạo lý càng có nguy cơ suy đồi, càng thiếu văn minh. Một khi đạo lý suy đồi thì xã hội dễ sinh loạn, luật pháp lại dễ bị coi thường, dễ thiếu văn minh…

Chính đạo lý suy đồi, luật pháp và hành pháp không nghiêm đã khiến cho nhiều người coi thường luật pháp, mà xảy ra nhiều hiện tượng như:

– Không chỉ những “tặc lớn” như “lâm tặc”, “vàng tặc”, “than tặc”… đều khó trị mà những “tặc nhỏ” như “đinh tặc” cũng kéo dài cả chục năm.

– Nạn “xin đểu”, móc túi hành khách trên xe khách, xe buýt… cũng thường xảy ra.

– Người điều khiển xe không tuân thủ luật giao thông: vượt ẩu, vượt đèn đỏ, chạy xe máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đánh võng trên đường phố… Khi vi phạm luật còn ngang nhiên chống lại người thi hành công vụ, như đâm thẳng xe vào cảnh sát giao thông (CSGT), nhổ nước bọt vào mặt CSGT, tát tai CSGT…

Một CSGT làm nhiệm vụ trên đường Láng Hạ (Hà Nội) bị người vi phạm lái xe đâm thẳng vào người và hất lên nắp ca pô.

Trong thời gian gần đây, báo chí đưa tin nhiều vụ cướp giật xuất hiện trên đường phố mà bọn cướp rất hung hãn, sẵn sàng chém, giết người để cướp của. Lại có những kẻ giết người một cách dã man, vô căn cứ như trường hợp Nguyễn Văn Dũng đã dùng dao đâm chết một bác sĩ và làm thương một bác sĩ khác tại bệnh viện đa khoa huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình sáng ngày 16/8/2011, khi biết anh của y chết (do để bệnh quá nặng mới đưa vào bệnh viện, nên các bác sĩ đã không thể cứu chữa được).

Những chuyện đáng tiếc như thế xảy ra, phải chăng nguyên nhân chính là do người dân coi thường pháp luật, khiến những cái xấu, cái ác… dễ dàng xảy ra?

Nhỏ nhặt như chuyện xả rác nơi công cộng, từ đường phố đến công viên, bãi biển… mà thủ phạm là những khách hàng lẫn người bán hàng đủ cả thành phần, trình độ… Thậm chí đêm 26/3/2011, ở 30 tỉnh thành trong nước ta có sự tụ tập của nhiều người trẻ để hưởng ứng chiến dịch Giờ trái đất, đó là việc rất tốt, thế nhưng đã có nơi, sau khi những người trẻ tiên tiến này giải tán thì để lại một bãi rác!

Việc xếp hàng chờ phục vụ, dân ta cũng mang tiếng là chưa được “văn minh”! Người viết đã trải qua những kỷ niệm khó quên trong văn hóa xếp hàng. Đã từng lấy hòn gạch thay vị trí của mình trong hàng từ lúc nửa đêm để chờ sáng sớm được mua gạo, nhưng hòn gạch vẫn được tôn trọng vì những người xếp hàng đều biết hòn gạch nào của ai. Tuy nhiên khi cung không đủ cầu, đưa đến nạn chợ đen thì rất dễ sinh loạn! Như khi đứng xếp hàng từ sáng đến chiều để mua vé xe lửa, đến khi ô cửa bán vé bắt đầu mở ra thì bị những người bặm trợn từ bên ngoài nhào vô “tống một phát văng ra khỏi hàng” để họ giành chỗ!

Ngày nay, những tình huống như thế không còn nữa. Nhưng tại một số quầy làm thủ tục lấy thẻ lên máy bay, thỉnh thoảng có những hướng dẫn viên du lịch không xếp hàng mà từ ngoài đi luôn lên quầy đặt một chồng vé và người làm thủ tục lại ưu tiên xử lý chồng vé ấy…

Đến những hành vi sau đây, thì “được cái gì”, “mất cái gì”, “dư cái gì” và “thiếu cái gì”? Khoảng 4 giờ 30 phút sáng 26/1/2011, một ô tô chở bia từ thành phố Vinh (Nghệ An) hướng về Hà Tĩnh, đến gần cầu Bến Thủy đã đâm vào dải phân cách và lật, làm hàng ngàn lon bia 333 đổ ra đường. Thế là hàng ngàn người dân quanh vùng xúm lại chen nhau giành lấy bia dù không phải của mình, khiến CSGT mệt nhoài vì ách tắc giao thông kéo dài và chủ bia kêu trời không thấu!

Tranh thủ lấy bia khiến “khổ chủ” của bia và CSGT thêm “khổ”.

Khi những hiện tượng như trên xảy ra thì hầu như người ta chỉ nói do dân trí ta thấp, do nhà trường không dạy đạo đức… Quả là tội nghiệp và oan cho những nhà giáo đứng lớp dạy!

Nhưng những hiện tượng kiểu đó có dễ xảy ra ở nước có nền pháp trị nghiêm minh như Singapore không? Ông Lý Quang Diệu đã xây dựng Singapore từ một vùng đất nghèo nàn, lạc hậu trở thành một đất nước giàu mạnh, văn minh, sạch sẽ bậc nhất châu Á chỉ trong mấy mươi năm. Mà khởi đầu của việc xây dựng là một nền pháp trị với việc xử phạt nghiêm minh từ các hành vi nhỏ nhặt nhất của dân chúng như phạt nặng tội xả rác, hút thuốc nơi công cộng, phá hoại tài sản công hay của người khác…

Một thí dụ điển hình là vụ Singapore xử phạt đánh mấy gậy vào mông một thanh niên Mỹ để trị tội “quậy phá” đã tạo ra cuộc khẩu chiến thú vị giữa Mỹ và Singapore vào năm 1994. Nguyên là cậu Mỹ Michael Fan, 18 tuổi, một hôm bỗng dưng nổi hứng lấy bình sơn xịt bậy lên một chiếc xe hơi của một ai đó tại Singapore. Cậu bị cảnh sát Singapore tóm cổ. Một phiên tòa của Singapore đã tuyên án cậu bị 4 tháng tù giam, nộp phạt 2.230USD và bị đánh 6 gậy vào mông!(1).

Sau khi tin được loan, cha mẹ cậu rất tức giận, cho rằng việc đánh gậy vào mông con họ là vi phạm nhân quyền. Dư luận báo chí Mỹ cũng lên tiếng phản đối ầm ĩ, thúc chính quyền Mỹ can thiệp với chính quyền Singapore để một công dân Mỹ khỏi bị cái nhục là bị Singapore quất roi vào mông. Tổng thống Mỹ Bill Clinton cực chẳng đã phải gởi lời xin Singapore tha cho cậu. Nhưng ông Shanmugam Jayakumar, Bộ trưởng Tư pháp kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Singapore, đã mạnh mẽ bảo vệ quyền của Singapore và phát biểu trong một hội nghị luật sư quốc tế rằng “không một chính quyền Singapore nào có thể điều hành đất nước hữu hiệu nếu công dân Singapore thấy chính quyền của họ khuất phục trước áp lực của báo chí Mỹ”.

Cho nên Singapore cứ sẽ quất gậy vào mông của Fan, chỉ giảm bớt 2 gậy! Cũng chính Tòa án này trước đó một tháng đã tuyên án quất 12 gậy và 8 tháng tù giam đối với một cậu học sinh 17 tuổi đến từ Hồng Kông. Như vậy là Singapore cứ “đét gậy vào mông” bất cứ “ông trời con” nào phạm luật của Singapore bất chấp từ đâu tới!

Nhưng việc quất mông của Singapore mang đầy tính “kỹ thuật và nghệ thuật”, nghĩa là rất “văn minh”! Người cầm gậy quất đã thực tập quất nhuần nhuyễn trên mô hình; trước khi bị quất thì mông người bị phạt sẽ được mang một cái “quần xịp nhà nghề” được chế tác đặc biệt để bảo vệ những chỗ cần thiết, và tuy cú quất đau thấu trời mà người bị quất vẫn không bị gãy xương, dập gân hay hư dây thần kinh!

Chuyên gia “quất mông” của Singapore biểu diễn kỹ thuật quất trên một mô hình cho thế giới biết trước khi quất vào mông cậu Mỹ Michael Fan(2).

Với cách phạt này, người Singapore không cho là hành động dã man hay vi phạm nhân quyền như người Mỹ nói, mà là bài học sơ đẳng nhất trong đạo học làm người theo văn hóa Đông phương của người Singapore! Ông Jayakumar còn cho biết Singapore cương quyết bảo vệ những luật nghiêm khắc như án tử hình bắt buộc đối với những người buôn bán ma túy và “giam tù để đề phòng” (preventive detention) mà không cần sự xét xử tại tòa án đối với “những tên thuộc những băng nhóm xấu xa và những tên buôn lậu ma túy khét tiếng” mà không thể bị tòa kết án vì “không ai dám đứng ra làm chứng”.

Như thế, muốn xây dựng một đất nước hùng mạnh, phát triển bền vững, người dân được an cư lạc nghiệp trong văn minh, văn hóa cao thì ngoài những điều kiện cần khác như các chính sách đúng đắn về quốc phòng, giáo dục, y tế, kinh tế… còn phải có một nền pháp trị không những với luật pháp nghiêm minh mà việc thi hành luật cũng phải nghiêm minh.

Nhưng như thế nào là nghiêm? Không thể nào nghiêm minh khi mà nhà nước có những chính sách không thích hợp gây hậu quả nghiêm trọng về các mặt kinh tế, xã hội khiến người dân chán nản, coi thường chính quyền; không thể nghiêm minh được khi mà người có chức có quyền lại tham nhũng, nhận hối lộ mà vẫn không bị luật pháp trừng trị thích đáng. Không thể nào nghiêm minh khi nhiều người quyền thế câu kết với những kẻ cơ hội, lợi dụng những sơ hở của luật pháp để làm giàu rất nhanh, bất chính trên tài sản của nhà nước và của đa số dân nghèo. Trong tình cảnh đó, người dân bắt chước coi thường luật pháp là chuyện tất nhiên. “Thượng bất chính, hạ tất loạn” là câu nói xưa nay vẫn còn nguyên giá trị.

Một điều cũng nên lưu ý là không nên lầm tưởng rằng khi có tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra đủ loại sản phẩm thỏa mãn các nhu cầu cao của con người và có một nền pháp trị nghiêm thì xã hội văn minh và không còn cái ác. Thật ra, có khoa học kỹ thuật cao, có luật lệ nghiêm minh được ghi thành văn bản thì chưa phải là văn minh đích thực khi con người thiếu cái đạo lý sống làm người lương thiện, khi con người chỉ “thiện”, “bác ái” với những người cùng phe nhóm, với những gì họ nghĩ lầm là có lợi cho họ, khiến họ có thể dễ dàng làm những việc ác…

Các hiện tượng đã và đang xảy ra ở các nước phát triển phương Tây minh chứng điều này. Chẳng hạn Anders Breivik ở Na Uy, do niềm tin tôn giáo mù quáng, ngày 23/7/2011 đã âm mưu cho nổ bom và vài giờ sau lại dùng súng bắn làm chết 92 người vô tội, không hề thù oán gì với y cả; hay như Shawn Morgan đã trùm bao plastic làm chết ngạt em bé gái 3 tuổi con nhà hàng xóm tại bang Missouri (Mỹ) ngày 6/8/2011(3); hay một người đàn ông ở bang Louisiana (Mỹ) hôm 16/8/2011 đã lấy gậy đánh rồi dùng dao chặt đầu, tay chân đứa con trai 7 tuổi bị tật nguyền của y và đem đầu đứa bé để gần đường cốt cho mẹ cậu bé thấy!(4).

Vì vậy, trong khi nhà nước ta theo đuổi chính sách phát triển sản xuất, kinh doanh để cố chạy theo phong cách của các nước tiên tiến phương Tây mà lơ là, quên đi những mặt tốt trong đạo học làm người tử tế vốn đã có sẵn trong văn hóa truyền thống của cha ông, là cái nền tảng của văn minh đích thực, khiến nhiều người đua nhau làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn trong bối cảnh luật pháp thiếu nghiêm minh, chính sách kinh tế xã hội còn nhiều sai lầm nên bất công có đất nảy nở, sự cách biệt giàu nghèo trong xã hội càng tăng… thì cái ác trong xã hội sẽ tăng lên là điều không thể tránh khỏi.

Quảng Thanh

(Theo tạp Chí Hồn Việt)

TẢN MẠN VỀ LUẬT PHÁP, HÀNH PHÁP, ĐẠO LÝ VÀ VĂN MINH

Bốn phạm trù luật pháp, hành pháp, đạo lý và văn minh luôn có liên hệ rất mật thiết với nhau. Luật pháp không nghiêm minh thì xã hội sẽ sinh loạn, nhưng dù văn bản luật pháp có nghiêm mà hành pháp không nghiêm thì xã hội cũng loạn. Xã hội nhiễu loạn thì đạo lý càng có nguy cơ suy đồi, càng thiếu văn minh. Một khi đạo lý suy đồi thì xã hội dễ sinh loạn, luật pháp lại dễ bị coi thường, dễ thiếu văn minh…

Bốn phạm trù luật pháp, hành pháp, đạo lý và văn minh luôn có liên hệ rất mật thiết với nhau. Luật pháp không nghiêm minh thì xã hội sẽ sinh loạn, nhưng dù văn bản luật pháp có nghiêm mà hành pháp không nghiêm thì xã hội cũng loạn. Xã hội nhiễu loạn thì đạo lý càng có nguy cơ suy đồi, càng thiếu văn minh. Một khi đạo lý suy đồi thì xã hội dễ sinh loạn, luật pháp lại dễ bị coi thường, dễ thiếu văn minh…

Chính đạo lý suy đồi, luật pháp và hành pháp không nghiêm đã khiến cho nhiều người coi thường luật pháp, mà xảy ra nhiều hiện tượng như:

– Không chỉ những “tặc lớn” như “lâm tặc”, “vàng tặc”, “than tặc”… đều khó trị mà những “tặc nhỏ” như “đinh tặc” cũng kéo dài cả chục năm.

– Nạn “xin đểu”, móc túi hành khách trên xe khách, xe buýt… cũng thường xảy ra.

– Người điều khiển xe không tuân thủ luật giao thông: vượt ẩu, vượt đèn đỏ, chạy xe máy không đội mũ bảo hiểm hoặc đánh võng trên đường phố… Khi vi phạm luật còn ngang nhiên chống lại người thi hành công vụ, như đâm thẳng xe vào cảnh sát giao thông (CSGT), nhổ nước bọt vào mặt CSGT, tát tai CSGT…

Một CSGT làm nhiệm vụ trên đường Láng Hạ (Hà Nội) bị người vi phạm lái xe đâm thẳng vào người và hất lên nắp ca pô.

Trong thời gian gần đây, báo chí đưa tin nhiều vụ cướp giật xuất hiện trên đường phố mà bọn cướp rất hung hãn, sẵn sàng chém, giết người để cướp của. Lại có những kẻ giết người một cách dã man, vô căn cứ như trường hợp Nguyễn Văn Dũng đã dùng dao đâm chết một bác sĩ và làm thương một bác sĩ khác tại bệnh viện đa khoa huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình sáng ngày 16/8/2011, khi biết anh của y chết (do để bệnh quá nặng mới đưa vào bệnh viện, nên các bác sĩ đã không thể cứu chữa được).

Những chuyện đáng tiếc như thế xảy ra, phải chăng nguyên nhân chính là do người dân coi thường pháp luật, khiến những cái xấu, cái ác… dễ dàng xảy ra?

Nhỏ nhặt như chuyện xả rác nơi công cộng, từ đường phố đến công viên, bãi biển… mà thủ phạm là những khách hàng lẫn người bán hàng đủ cả thành phần, trình độ… Thậm chí đêm 26/3/2011, ở 30 tỉnh thành trong nước ta có sự tụ tập của nhiều người trẻ để hưởng ứng chiến dịch Giờ trái đất, đó là việc rất tốt, thế nhưng đã có nơi, sau khi những người trẻ tiên tiến này giải tán thì để lại một bãi rác!

Việc xếp hàng chờ phục vụ, dân ta cũng mang tiếng là chưa được “văn minh”! Người viết đã trải qua những kỷ niệm khó quên trong văn hóa xếp hàng. Đã từng lấy hòn gạch thay vị trí của mình trong hàng từ lúc nửa đêm để chờ sáng sớm được mua gạo, nhưng hòn gạch vẫn được tôn trọng vì những người xếp hàng đều biết hòn gạch nào của ai. Tuy nhiên khi cung không đủ cầu, đưa đến nạn chợ đen thì rất dễ sinh loạn! Như khi đứng xếp hàng từ sáng đến chiều để mua vé xe lửa, đến khi ô cửa bán vé bắt đầu mở ra thì bị những người bặm trợn từ bên ngoài nhào vô “tống một phát văng ra khỏi hàng” để họ giành chỗ!

Ngày nay, những tình huống như thế không còn nữa. Nhưng tại một số quầy làm thủ tục lấy thẻ lên máy bay, thỉnh thoảng có những hướng dẫn viên du lịch không xếp hàng mà từ ngoài đi luôn lên quầy đặt một chồng vé và người làm thủ tục lại ưu tiên xử lý chồng vé ấy…

Đến những hành vi sau đây, thì “được cái gì”, “mất cái gì”, “dư cái gì” và “thiếu cái gì”? Khoảng 4 giờ 30 phút sáng 26/1/2011, một ô tô chở bia từ thành phố Vinh (Nghệ An) hướng về Hà Tĩnh, đến gần cầu Bến Thủy đã đâm vào dải phân cách và lật, làm hàng ngàn lon bia 333 đổ ra đường. Thế là hàng ngàn người dân quanh vùng xúm lại chen nhau giành lấy bia dù không phải của mình, khiến CSGT mệt nhoài vì ách tắc giao thông kéo dài và chủ bia kêu trời không thấu!

Tranh thủ lấy bia khiến “khổ chủ” của bia và CSGT thêm “khổ”.

Khi những hiện tượng như trên xảy ra thì hầu như người ta chỉ nói do dân trí ta thấp, do nhà trường không dạy đạo đức… Quả là tội nghiệp và oan cho những nhà giáo đứng lớp dạy!

Nhưng những hiện tượng kiểu đó có dễ xảy ra ở nước có nền pháp trị nghiêm minh như Singapore không? Ông Lý Quang Diệu đã xây dựng Singapore từ một vùng đất nghèo nàn, lạc hậu trở thành một đất nước giàu mạnh, văn minh, sạch sẽ bậc nhất châu Á chỉ trong mấy mươi năm. Mà khởi đầu của việc xây dựng là một nền pháp trị với việc xử phạt nghiêm minh từ các hành vi nhỏ nhặt nhất của dân chúng như phạt nặng tội xả rác, hút thuốc nơi công cộng, phá hoại tài sản công hay của người khác…

Một thí dụ điển hình là vụ Singapore xử phạt đánh mấy gậy vào mông một thanh niên Mỹ để trị tội “quậy phá” đã tạo ra cuộc khẩu chiến thú vị giữa Mỹ và Singapore vào năm 1994. Nguyên là cậu Mỹ Michael Fan, 18 tuổi, một hôm bỗng dưng nổi hứng lấy bình sơn xịt bậy lên một chiếc xe hơi của một ai đó tại Singapore. Cậu bị cảnh sát Singapore tóm cổ. Một phiên tòa của Singapore đã tuyên án cậu bị 4 tháng tù giam, nộp phạt 2.230USD và bị đánh 6 gậy vào mông!(1).

Sau khi tin được loan, cha mẹ cậu rất tức giận, cho rằng việc đánh gậy vào mông con họ là vi phạm nhân quyền. Dư luận báo chí Mỹ cũng lên tiếng phản đối ầm ĩ, thúc chính quyền Mỹ can thiệp với chính quyền Singapore để một công dân Mỹ khỏi bị cái nhục là bị Singapore quất roi vào mông. Tổng thống Mỹ Bill Clinton cực chẳng đã phải gởi lời xin Singapore tha cho cậu. Nhưng ông Shanmugam Jayakumar, Bộ trưởng Tư pháp kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Singapore, đã mạnh mẽ bảo vệ quyền của Singapore và phát biểu trong một hội nghị luật sư quốc tế rằng “không một chính quyền Singapore nào có thể điều hành đất nước hữu hiệu nếu công dân Singapore thấy chính quyền của họ khuất phục trước áp lực của báo chí Mỹ”.

Cho nên Singapore cứ sẽ quất gậy vào mông của Fan, chỉ giảm bớt 2 gậy! Cũng chính Tòa án này trước đó một tháng đã tuyên án quất 12 gậy và 8 tháng tù giam đối với một cậu học sinh 17 tuổi đến từ Hồng Kông. Như vậy là Singapore cứ “đét gậy vào mông” bất cứ “ông trời con” nào phạm luật của Singapore bất chấp từ đâu tới!

Nhưng việc quất mông của Singapore mang đầy tính “kỹ thuật và nghệ thuật”, nghĩa là rất “văn minh”! Người cầm gậy quất đã thực tập quất nhuần nhuyễn trên mô hình; trước khi bị quất thì mông người bị phạt sẽ được mang một cái “quần xịp nhà nghề” được chế tác đặc biệt để bảo vệ những chỗ cần thiết, và tuy cú quất đau thấu trời mà người bị quất vẫn không bị gãy xương, dập gân hay hư dây thần kinh!

Chuyên gia “quất mông” của Singapore biểu diễn kỹ thuật quất trên một mô hình cho thế giới biết trước khi quất vào mông cậu Mỹ Michael Fan(2).

Với cách phạt này, người Singapore không cho là hành động dã man hay vi phạm nhân quyền như người Mỹ nói, mà là bài học sơ đẳng nhất trong đạo học làm người theo văn hóa Đông phương của người Singapore! Ông Jayakumar còn cho biết Singapore cương quyết bảo vệ những luật nghiêm khắc như án tử hình bắt buộc đối với những người buôn bán ma túy và “giam tù để đề phòng” (preventive detention) mà không cần sự xét xử tại tòa án đối với “những tên thuộc những băng nhóm xấu xa và những tên buôn lậu ma túy khét tiếng” mà không thể bị tòa kết án vì “không ai dám đứng ra làm chứng”.

Như thế, muốn xây dựng một đất nước hùng mạnh, phát triển bền vững, người dân được an cư lạc nghiệp trong văn minh, văn hóa cao thì ngoài những điều kiện cần khác như các chính sách đúng đắn về quốc phòng, giáo dục, y tế, kinh tế… còn phải có một nền pháp trị không những với luật pháp nghiêm minh mà việc thi hành luật cũng phải nghiêm minh.

Nhưng như thế nào là nghiêm? Không thể nào nghiêm minh khi mà nhà nước có những chính sách không thích hợp gây hậu quả nghiêm trọng về các mặt kinh tế, xã hội khiến người dân chán nản, coi thường chính quyền; không thể nghiêm minh được khi mà người có chức có quyền lại tham nhũng, nhận hối lộ mà vẫn không bị luật pháp trừng trị thích đáng. Không thể nào nghiêm minh khi nhiều người quyền thế câu kết với những kẻ cơ hội, lợi dụng những sơ hở của luật pháp để làm giàu rất nhanh, bất chính trên tài sản của nhà nước và của đa số dân nghèo. Trong tình cảnh đó, người dân bắt chước coi thường luật pháp là chuyện tất nhiên. “Thượng bất chính, hạ tất loạn” là câu nói xưa nay vẫn còn nguyên giá trị.

Một điều cũng nên lưu ý là không nên lầm tưởng rằng khi có tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra đủ loại sản phẩm thỏa mãn các nhu cầu cao của con người và có một nền pháp trị nghiêm thì xã hội văn minh và không còn cái ác. Thật ra, có khoa học kỹ thuật cao, có luật lệ nghiêm minh được ghi thành văn bản thì chưa phải là văn minh đích thực khi con người thiếu cái đạo lý sống làm người lương thiện, khi con người chỉ “thiện”, “bác ái” với những người cùng phe nhóm, với những gì họ nghĩ lầm là có lợi cho họ, khiến họ có thể dễ dàng làm những việc ác…

Các hiện tượng đã và đang xảy ra ở các nước phát triển phương Tây minh chứng điều này. Chẳng hạn Anders Breivik ở Na Uy, do niềm tin tôn giáo mù quáng, ngày 23/7/2011 đã âm mưu cho nổ bom và vài giờ sau lại dùng súng bắn làm chết 92 người vô tội, không hề thù oán gì với y cả; hay như Shawn Morgan đã trùm bao plastic làm chết ngạt em bé gái 3 tuổi con nhà hàng xóm tại bang Missouri (Mỹ) ngày 6/8/2011(3); hay một người đàn ông ở bang Louisiana (Mỹ) hôm 16/8/2011 đã lấy gậy đánh rồi dùng dao chặt đầu, tay chân đứa con trai 7 tuổi bị tật nguyền của y và đem đầu đứa bé để gần đường cốt cho mẹ cậu bé thấy!(4).

Vì vậy, trong khi nhà nước ta theo đuổi chính sách phát triển sản xuất, kinh doanh để cố chạy theo phong cách của các nước tiên tiến phương Tây mà lơ là, quên đi những mặt tốt trong đạo học làm người tử tế vốn đã có sẵn trong văn hóa truyền thống của cha ông, là cái nền tảng của văn minh đích thực, khiến nhiều người đua nhau làm giàu bất chấp mọi thủ đoạn trong bối cảnh luật pháp thiếu nghiêm minh, chính sách kinh tế xã hội còn nhiều sai lầm nên bất công có đất nảy nở, sự cách biệt giàu nghèo trong xã hội càng tăng… thì cái ác trong xã hội sẽ tăng lên là điều không thể tránh khỏi.

Quảng Thanh

(Theo tạp Chí Hồn Việt)

LỆ LÀNG – PHÉP VUA NGẪM QUA NGÔI ĐÌNH CỦA NGƯỜI VIỆT

Đời sống xã hội của người Việt đã trải qua hàng nghìn năm, tổ chức xã hội của người Việt gắn liền với cộng đồng làng xã. Ở mỗi làng xã của người Việt cổ truyên có những công trình văn hóa hình thành và tổn tại lâu đời như Đình Làng, chùa làng, văn chỉ, quán…

 

Đời sống xã hội của người Việt đã trải qua hàng nghìn năm, tổ chức xã hội của người Việt gắn liền với cộng đồng làng xã. Ở mỗi làng xã của người Việt cổ truyên có những công trình văn hóa hình thành và tổn tại lâu đời như Đình Làng, chùa làng, văn chỉ, quán…

Trong phạm vi bài viết nhỏ này chỉ đề cập đến một công trình kiến trúc phổ biến của cộng đồng người Việt gắn bó với đời sống người việt, mang những chức năng, đặc điểm phản ánh yếu tố lịch sử ,văn hóa, chính trị, pháp lý là nhân chứng của lịch sử chứng kiến sự phát triển thăng trầm của xã hội người việt đó chính là Đình làng.

Đình làng không biết có trong đời sống xã hội người Việt từ bao giờ nhưng khi được xây dựng ở làng quê Việt mang những chức năng và đặc điểm chung của nó.

Đình làng là chốn đình chung của cả làng nơi đó diễn ra các cuộc họp mà người họp là nam giới ở tuổi lên bô. Tại các cuộc họp này các bô bàn bạc và thống nhất giải quyết các công việc của làng theo các yêu cầu của nhà nước trung ương triển khai xuống hoặc các công việc của làng xã đặt ra. Hay nói cách khác là nơi diễn ra các cuộc họp bàn giải quyết các công việc chung của làng xã. Mang tính hành chính và tự quản của làng xã.

Đình làng còn là nơi để thờ cúng các vị thành hoàng làng có công với làng, có công với đất nước, dân tộc. Việc thờ cúng này theo phong tục của làng xã để tri ân các vị thánh, hoặc việc thờ cúng các vị thần này theo sắc phong của Nhà vua. Nhà vua sắc phong công lao cho vị thánh và giao nhiệm vụ cho vị thánh đó gia hộ bảo vệ làng xã, ngược lại làng xã có bổn phận thờ cúng vị thánh của làng mình, qua đó cũng thể hiện tri ân công đức vị thánh và cũng là tri ân nhà vua.

Đình làng còn là nơi diễn ra các lễ hội của làng xã mang các yếu tố văn hóa truyền thống của làng. Thông qua lễ hội người dân của làng xã được dịp bầy tỏ lòng tri ân các vị thánh và tham gia các trò chơi trong lễ hội phản ánh các giá trị tự do tư tưởng, tự do của con người.

Đình làng khi xây dựng  thông thường được làng xã chọn khu đất cao thoáng rộng và khu đất để xây đình thường đặt ở ngoài làng xóm. Rất hiếm khi xây trong làng.

Tại sao lại  đình làng lại có những chức năng và đặc điểm như vậy, điều này có rất nhiều sự lý giải khác nhau nhưng có 1 sự lý giải về kiến trúc không gian, chức năng  của đình làng người việt thể  hiện mối liên hệ với câu ca của người Việt : “Phép vua thua lệ Làng”.

Phép vua thua lệ làng đã tồn tại rất lâu bền với người việt phản ánh thực tế đời sống xã hội người việt ở mỗi làng xã có quy tắc riêng cho mình, các quy tắc này được cộng đồng làng xã tôn trọng thực thi bên cạnh pháp luật của nhà vua, Nhiều khi lệ làng được coi trọng hơn phép vua. Điều này cũng phản ánh một thực tế pháp luật của nhà vua  chưa đủ mạnh, chưa phản ánh được nguyện vọng của dân chúng mà nhiều điều của pháp luật đã đối lập với quyền lợi của dân chúng, pháp luật đã không là thước đo đại lượng của đời sống xã hội. Khi nào pháp luật của nhà vua bị dân chúng đánh giá thấp, không sử dụng mà sử dụng lệ làng thì giai đoạn đó lịch sử  Đại Việt kém phát triển trên mọi lĩnh vực.

Cho nên khi ban hành pháp luật, chiếu, chỉ dụ hoặc các quyết định cai trị của chính quyền cấp trên thường được tổ chức triển khai đến dân chúng tại đình làng. Mà đình làng được xây dựng ở ngoài làng chứ không phải là trong làng, nếu để trong làng thì triển khai sẽ  yếu thế (người dân coi thường pháp luật) pháp luật và các chính sách cai trị của nhà nước thấp hơn lệ làng của làng xã, ảnh hưởng đến uy tín và các chính sách của triều đình.

Đến thế kỷ thứ 15 thời Lê Sơ chúng ta chứng kiến được một cuộc cải cách rất lớn của Hoàng đế Lê Thánh tông về giải quyết mối quan hệ phép vua và lệ làng một cách hợp lý. Ông sử dụng biện pháp cai trị kết hợp giữa phép vua (luật) và lệ làng đã đạt hiệu quả cao trong đời sống xã hội Đại Việt. Thông qua sự kết hợp này mà Lê Thánh Tông đã thống nhất được tư tưởng, nhân lực, vật lực hướng về trung ương làm cho nhà nước, và xã hội phong kiến đại việt phát triển cực thịnh. Cách làm của Nhà vua Lê Thánh Tông biểu hiện ở chỗ: Một Đạo dụ của Lê Thánh Tông được sách Hồng Đức thiện chính thư  ghi lại (không rõ năm). Các câu chữ trong Đạo dụ này thể hiện rõ 5 ý: Các làng xã không nên có khoán ước riêng,  vì đã có luật pháp chung của Nhà nước rồi; Làng nào có tục khác lạ thì có thể cho lập khoán ước và đặt ra những lệ cấm; Việc thảo ra hương ước phải là những người có học thức, có đức hạnh, có chức phận chính thức và có tuổi tác;  Khoán ước phải được quan trên kiểm duyệt; Khi đã có khoán ước rồi mà vẫn còn có những người không chịu tuân theo, cứ nhóm họp riêng, thì sẽ bị quan trên trị tội.

Lê Thánh Trông trong đời làm vua của mình còn là ông vua sắc phong cho rất nhiều các vị thần thờ cúng tại các làng Việt, sau này các triều đại tiếp theo cũng đã tiếp nối truyền thống này. Điều này phản ánh sự ngự trị của quyền lực nhà vua trong tư tưởng của dân chúng, qua đó đề cao được quyền lực của nhà vua thống nhất được phép vua với lệ làng.

Như vậy, qua hình ảnh của ngôi đình làng, Những câu ca về lệ làng phép vua chúng ta thấy phần nào có những mối liên hệ giữa chúng, phản ánh những giá trị về lịch sử, văn hóa. Qua đây chúng ta cũng có thể rút ra bài học của lịch sử. Các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thế đó phản ánh hơi thở, đời sống của người dân luôn luôn có sự liên hệ chặt chẽ với nhà nước trung ương. Là những người lãnh đạo của đất nước biết lắng nghe, phát hiện và điều chỉnh đúng, những chính sách của nhà nước hợp lòng dân, phản ánh lợi ích của người dân, của quốc gia, dân tộc thì sẽ đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, vững chắc,  giữ và phát huy được bản sắc văn hóa tốt đẹp.

ThS. Trương Vĩnh Khang – Viện Nhà nước và Pháp luật

Theo: Báo Dân trí điện tử

NGƯỜI VIỆT CÓ TRUYỀN THỐNG BẤT TUÂN PHÁP LUẬT

Cách đây vài năm không ít người Trung Quốc đã từng bị sốc khi cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” của nhà văn Bá Dương ra đời. Sốc là phải thôi bởi từ lâu người ta đã quá quen với “những từ có cánh” để cho “cả nhà đều vui” khi nói về dân tộc mình .Thói thường “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại” là cách ứng xử đã trở thành chuẩn mực giữa người với người và giữa mình với chính mình.

Có thật thế không?

 

Cách đây vài năm không ít người Trung Quốc đã từng bị sốc khi cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” của nhà văn Bá Dương ra đời. Sốc là phải thôi bởi từ lâu người ta đã quá quen với “những từ có cánh” để cho “cả nhà đều vui” khi nói về dân tộc mình .Thói thường “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại” là cách ứng xử đã trở thành chuẩn mực giữa người với người và giữa mình với chính mình. Thế nhưng, một dân tộc mạnh phải biết nhìn thấy và dũng cảm thừa nhận những nhược điểm của mình. Nói cách khác, biết mình yếu ở chỗ nào tức là đã mạnh thêm được một ít. Còn thói xấu của người Việt mình không phải là không có chỉ có điều nó chưa được chỉ mặt đặt tên chính xác thôi. Bất tuân pháp luật – là một thói xấu như vậy.

Pháp luật- chắc nó trừ mình ra

Biểu hiện của việc bất tuân pháp luật trước hết có thể tìm trong lịch sử. Đó là những cuộc khởi nghĩa nông dân liên miên của người Việt chống lại sự thống trị của ngoại bang trong đêm dài Bắc thuộc, trong những giai đoạn mà triều đình phong kiến đang suy vong và lòng dân không yên…Ngay cả bây giờ, tuy không phải là trào lưu nhưng ý thức tuân thủ pháp luật của dân mình còn kém lắm- có thể kể cả ngày không hết. Nhẹ thì vi phạm luật giao thông, mắt trước mắt sau không thấy cảnh sát đâu là vượt đền đỏ. Cao hơn tý nữa là lấn chiếm đất đai, rồi xây dựng trái phép… Điều đáng buồn nhất là người ta coi việc vi phạm ấy là cái gì đó có vẻ hay ho. Có chị mấy lần vượt đèn đỏ bị công an bắt hụt coi đó là chiến tích âm ỉ sung sướng mấy ngày chưa hết gặp ai cũng khoe. Những người ngành toà án có lẽ không ai là không cảm thấy chua chát khi đương sự của mình gọi mãi không đến hỏi tại sao thì họ bảo các cụ dạy “vô phúc đáo tụng đình” bởi “chờ được vạ thì má đã sưng”. Người ta đã đồng nghĩa pháp luật và toà án với xử phạt và trừng trị. Chính vì vậy, có làm ngành toà mới  có thể chia sẻ với Chánh án TANDTC đương nhiệm khi ông bày tỏ mơ ước trước Quốc hội có một ngày, ngành toà có  những “đương sự tốt, bị cáo tốt”. Có nghĩa là người dân thay vì chống đối hãy coi tòa án là người bảo vệ công lý. Cho dù tòa có phạt ai đi chăng nữa cũng không ngoài mục đích đem đến sự an toàn pháp lý cho xã hội và bảo vệ con người. Nghe nói ở một số nước, luật bảo vệ môi trường và động vật cũng như ý thức tuân thủ pháp luật của họ cao đến mức chim bồ câu có thể thanh thản dạo chơi và kiếm ăn hàng đàn trên các quảng trường thành phố và được con người coi ngươi đối xử như những người bạn. Trộm nghĩ nếu như ở nước mình quảng trường có nuôi chim là mơ ước của mấy ông bợm nhậu . Chỉ có thịt chim ngon và bổ là có thật còn pháp luật này nọ – chắc nó trừ mình ra.

Nguyên nhân – tìm trong lịch sử

Một giáo sư nổi tiếng đã dày công nghiên cứu lịch sử và pháp luật Việt Nam sau khi quả quyết về cái “truyền thống” không quý báu nói trên của người Việt mình đã lý giải thuyết phục nguyên nhân của nó. Đó là do dân ta phải sống quá lâu trong chế độ đô hộ, phong kiến, thực dân . Pháp luật theo họ là công cụ của kẻ thống trị, của ngoại bang chỉ để trấn áp, trừng trị và phục vụ thiểu số người. Bất tuân pháp luật là sự phản ứng của người Việt  trước kiểu pháp luật ấy. Chính vì vậy họ không tìm thấy trong pháp luật những giá trị phản ánh lợi ích của mình nên đã hình thành nên một phản xạ luôn đặt pháp luật trong tư thế đối lập với mình. Pháp luật là của Nhà nước, Nhà nước không phải của dân. Còn người dân Việt, họ đã quay về cố thủ sau luỹ tre làng và bằng lòng với những lệ làng, hương ước tuy giản dị đơn sơ và có phần hoang dã nhưng lại phản ánh được ý chí của họ. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng đã hơn một lần khẳng định. “người Việt mất nước chứ không mất làng” là vì thế. Phải chăng cái tâm lý coi pháp luật luôn là một giá trị đối lập với mình còn rơi rớt đến bây giờ?

Để người dân không còn bất tuân pháp luật cần phải khẳng định đó là kiểu pháp luật gì. Tôi nghĩ rằng người Việt mình sẽ không có truyền thống bất tuân pháp luật khi họ nhận thấy cái pháp luật hiện hữu đang điều chỉnh họ là kiểu pháp luật phù hợp với quy luật khách quan, khi nó “vang vọng tiếng dân” chứ không phải là sự áp đặt của thiểu số người trong xã hội.

Để kết bài viết này chúng tôi xin phép được nhắc lại một câu của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội trong bài viết của ông đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật năm 2001 đó là : Trong một xã hội phương Đông như Việt Nam, thiếu luật chưa hẳn là  một điều gì  đó đáng lo ngại, điều nguy hiểm nhất là người dân thờ ơ với pháp luật.

 

ThS. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật

Theo: Cuốn “Người Việt phẩm chất và thói hư tật xấu” – NXB Thanh Niên, năm 2009

VĂN HÓA PHÁP LÝ VÀ NGHỆ THUẬT ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐỜI SỐNG

Văn hoá được hiểu là tất cả những gì, kể cả bản thân con người, do con người từ thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau thông qua lao động sáng tạo ra và xây dựng nên nhằm đáp ứng các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của mình. Mọi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hoá riêng được xây dựng và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.

Văn hoá được hiểu là tất cả những gì, kể cả bản thân con người, do con người từ thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau thông qua lao động sáng tạo ra và xây dựng nên nhằm đáp ứng các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của mình. Mọi quốc gia, dân tộc đều có nền văn hoá riêng được xây dựng và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Trong quá trình toàn cầu hoá, văn hoá chính là nền tảng để dân tộc Việt Nam hội nhập nhưng không hoà tan. Văn hoá pháp lý là một bộ phận hợp thành của nền văn hoá dân tộc và hàm chứa trong nó ba yếu tố: ý thức pháp luật; hệ thống pháp luật và trình độ, kỹ năng, nghệ thuật áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội.

 

1.Ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật thuộc lĩnh vực đời sống của con người. Cấu trúc của ý thức pháp luật bao gồm các yếu tố và mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, như: trí tuệ pháp luật; tình cảm pháp luật và thói quen pháp luật.

1.1. Trí tuệ pháp luật

Trí tuệ pháp luật được thể hiện ở ba nội dung: nhận thức pháp luật; tri thức pháp luật; học thuyết pháp lý.

Nhận thức pháp luật của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết nhiều hay ít, nông hay sâu về nội dung của các quy phạm pháp luật và quá trình điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Nhận thức pháp luật có thể phân biệt thành ba mức độ khác nhau: chưa nhận thức được; nhận thức chưa đầy đủ và nhận thức tương đối toàn diện. Trí tuệ của con người là không có giới hạn. Từ nhận thức chưa đầy đủ đến nhận thức ngày một rõ ràng hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn về pháp luật là con đường tất yếu con người phải trải qua. Nhận thức đúng về pháp luật là bảo đảm quan trọng cho mỗi người hành động đúng theo yêu cầu của pháp luật. Không nhận thức được pháp luật hoặc nhận thức sai lệch về pháp luật sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật. Vì vậy, Nhà nước ta dành phần ngân sách đáng kể, sử dụng phương tiện vật chất, kỹ thuật và luôn kiên trì, bền bỉ để tổ chức giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho dân chúng.

Tri thức pháp luật thể hiện ở trình độ hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ, sâu sắc, là kết quả của tính năng động, tìm tòi, khám phá trong hoạt động tư duy của con người. Tri thức pháp luật cần cho mọi người, mọi ngành. Để đảm bảo thành công cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, Nhà nước cần đề ra hệ thống chỉ tiêu trình độ tri thức pháp luật cho công dân và cán bộ công chức, viên chức. Hệ thống chỉ tiêu đó có thể là: trình độ tri thức pháp luật phổ thông (có hiểu biết về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân); trình độ tri thức pháp luật trung cấp (đối với công chức bình thường phải nắm được pháp luật về hành chính, bộ máy nhà nước…); trình độ tri thức pháp luật đại học (đối với công chức, viên chức ngành tư pháp phải có bằng cử nhân luật…); trình độ tri thức pháp luật trên đại học (đối với các giảng viên đại học chuyên về các môn khoa học pháp lý, các cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo chuyên luật, các cơ sở nghiên cứu về luật…).

Trình độ tri thức pháp luật của công chức, viên chức ở cương vị nào phải tương xứng với cương vị đó, hoạt động ở lĩnh vực nào phải nắm vững pháp luật về lĩnh vực ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rất rõ yêu cầu này nên khi đề ra đường lối đổi mới, Văn kiện Đại hội VI (tháng 12/1986) đã khẳng định: “Cán bộ quản lý hành chính nhà nước từ Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch các cấp, Cục, Vụ trưởng đều phải là những người hiểu biết nguyên tắc, chế độ quản lý hành chính, hiểu biết pháp luật, hiểu biết chuyên môn… Các cán bộ lãmh đạo và quản lý ở các cương vị chủ chốt từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ Tổng giám đốc đến cán bộ quản lý cơ sở đều phải qua các lớp bồi dưỡng định kỳ có sát hạch theo chương trình thiết thực, có hệ thống về đường lối, chính sách, cơ chế quản lý và kiến thức quản lý mới về chuyên môn, nghiệp vụ và về pháp luật…”1. Hiện nay, trong điều kiện mới thì những yêu cầu trên của Đảng cần phải được nhấn mạnh hơn, kiên quyến hơn trong thực thi nhằm phục vụ tốt hơn sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tri thức pháp luật không tương xứng với cương vị công tác, với quyền hạn và trách nhiệm được giao là nguyên nhân tiềm ẩn của sự vi phạm pháp luật, lạm quyền, cửa quyền.

Học thuyết pháp lý. Cũng như mọi ngành khoa học khác, khoa học pháp lý trong quá trình phát triển về mặt lý luận đã phát sinh ra nhiều học thuyết khác nhau như học thuyết pháp trị, đức trị, kỹ trị, tam quyền phân lập… Các nhà khoa học pháp lý chân chính của Việt Nam cần quan tâm  xây dựng ý thức hệ pháp luật quốc gia của mình trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Nội dung cốt lõi của học thuyết pháp luật Việt Nam phải bao hàm những vấn đề cơ bản sau: pháp luật là ý chí của nhân dân lao động Việt Nam; Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp… Việc áp dụng một cách máy móc các học thuyết pháp lý của nước ngoài vào hoàn cảnh Việt Nam là điều cần tránh.

1.2. Tình cảm pháp luật

Tình cảm con người là những rung động đặc thù về tâm hồn được biểu hiện thông qua các cung bậc của cảm xúc như vui mừng, sợ hãi, oán ghét, thán phục, niềm tin và hi vọng, sự chán chường, sự mất lòng tin… Tình cảm con người được thể hiện bằng những thái độ như ủng hộ hay phản đối, gần gũi hay xa lánh, quan tâm hay thờ ơ… Từ đó có thể hiểu tình cảm pháp luật là những rung động về tâm hồn của con người đối với pháp luật nói chung và đối với những hành vi cụ thể được pháp luật điều chỉnh. Tình cảm pháp luật là niềm tin hay mất niềm tin, là sự tôn trọng hay không tôn trọng đối với pháp luật và những việc liên quan đến pháp luật. Tình cảm pháp luật của mỗi người là khác nhau: có người rất tôn trọng pháp luật, sống có kỷ cương, nền nếp nhưng có người lại coi thường pháp luật, nói đến pháp luật là họ cảm thấy mất tự do.

Trong đời sống xã hội, tình cảm pháp luật của công dân chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Người có tình cảm pháp luật theo hướng tích cực sẽ tự nguyện tuân thủ pháp luật góp phần hoàn thành nghĩa vụ, nâng cao trách nhiệm của mình đối với gia đình, cộng đồng và Tổ quốc. Vì vậy, Nhà nước cần có các biện pháp phù hợp thường xuyên vun đắp, bồi dưỡng tình cảm pháp luật cho dân chúng.

1.3. Ý chí, thói quen pháp luật

Tình cảm pháp luật lành mạnh luôn xuất hiện ở những người có ý chí pháp luật vững vàng. Người có ý chí pháp luật vững vàng luôn giữ vững được tình cảm pháp luật tích cực và luôn có hành vi xử sự phù hợp với pháp luật. Ngay cả trong trường hợp bị mua chuộc, bị khống chế, bị đe doạ đến tính mạng thì người có ý chí pháp luật vững vàng cũng không thực hiện hành vi trái luật. Hơn thế nữa, người có ý chí pháp luật vững vàng không dung thứ, làm ngơ trước những hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ ai. Họ luôn đấu tranh ngăn chặn các hành vi phạm pháp nhằm bảo vệ pháp luật.

Quá trình tuân thủ pháp luật trong đời sống xã hội luôn hình thành các thói quen pháp luật và khó có thể cưỡng lại thói quen khi nó đã trở thành nếp sống của con người, trong đó có thói quen tích cực và thói quen tiêu cực. Người có thói quen tốt về pháp luật trước khi làm bất cứ việc gì đều tìm hiểu, tra cứu kỹ càng pháp luật; tham khảo đầy đủ ý kiến của các chuyên gia, lắng nghe đầy đủ các lập luận phản biện. Họ là lực lượng quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần tuyên truyền, phổ biến, có biện pháp nhân rộng thói quen tích cực trong dân chúng. Ngoài ra, Nhà nước cũng đồng thời phải có kế hoạch khắc phục thói quen tiêu cực. Biểu hiện của thói quen tiêu cực về pháp luật trong quản lý là quản lý không theo pháp luật: lối quản lý tuỳ tiện, nghĩ sao làm vậy, không chịu tìm hiểu pháp luật trước khi ra quyết định, không muốn để người khác phản biện, chỉ muốn người khác tung hô, phụ hoạ ý kiến của mình. Người có thói quen pháp luật xấu trong quản lý thường chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình, địa phương mình, xem nhẹ lợi ích đại cục, lợi ích chung của đất nước; khi không hoàn thành nhiệm vụ thường đổ lỗi cho sự bất cập của cơ chế, pháp luật.

Trí tuệ pháp luật, tình cảm pháp luật và ý chí, thói quen pháp luật là ba yếu tố hợp thành ý thức pháp luật. Khi nói đến việc nâng cao ý thức pháp luật thì phải có biện pháp đồng bộ nâng cao tất cả các yếu tố hợp thành.

2. Hệ thống pháp luật

Lịch sử xã hội loài người cho thấy, khi nào pháp luật hợp lòng người, rõ ràng và được tuân thủ nghiêm minh thì lòng dân quy tụ vào một mối, hiệu lực quản lý nhà nước được nâng cao và đạt hiệu quả, xã hội phát triển ổn định. Ngược lại, nếu pháp luật không rõ ràng, không minh bạch, lạc hậu, việc tuân thủ pháp luật bị buông lỏng thì công lý suy giảm, lòng dân không yên, xã hội lâm vào tình trạng mất ổn định. Như vậy, rối loạn trước hết là rối loạn kỷ cương, phép nước và lập lại trật tự, ổn định cũng bắt đầu từ việc sửa đổi chính sách, pháp luật. Muốn thúc đẩy xã hội phát triển phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Hệ thống pháp luật của một quốc gia được coi là hoàn thiện nếu đạt được các tiêu chí sau:

Một là, phù hợp với trình độ phát triển và quy luật khách quan của xã hội. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở pháp lý thống nhất cho sự phát triển mọi mặt của xã hội. Pháp luật sẽ tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội khi nó được xây dựng  phù hợp với quy luật kinh tế – xã hội, trình độ phát triển, thực tiễn của đời sống xã hội. Khi một quy phạm pháp luật nào đó không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội thì cần phải sửa đổi, bổ sung.

Hai là, mang tính đồng bộ, thống nhất. Pháp luật bao gồm một hệ thống các văn bản luật và văn bản dưới luật. Pháp luật chỉ được phát huy tác dụng khi hệ thống các văn bản đó đồng bộ với nhau, các điều luật không mâu thuẫn, chồng chéo mà phải thống nhất với nhau. Văn bản dưới luật phải phù hợp với văn bản luật. Các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp.

Ba là, mang tính ổn định cao. Sự ổn định của pháp luật thể hiện sự ổn định của xã hội. Nhà làm luật phải nhận thức được xu thế phát triển, dự kiến được các tình huống có thể xảy ra trong tương lai để định ra các đạo luật phù hợp với thực tiễn. Pháp luật ổn định đem lại lòng tin cho dân chúng, đặc biệt là các nhà đầu tư, các doanh nhân. Để pháp luật hay thay đổi là điều nên tránh.

Bốn là, được ban hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Làm luật không phải là sáng kiến bất chợt mà là một quá trình nghiền ngẫm, nghiên cứu, khảo sát thực tiễn, đúc kết, thí nghiệm, thực nghiệm công phu. Trước hết, nhà làm luật phải đề ra chương trình, kế hoạch, phân công cơ quan chủ trì và phối hợp soạn thảo, đưa ra các cơ quan và đoàn thể thảo luận, đưa ra toàn dân thảo luận, giai đoạn chỉnh sửa…, trước khi thông qua phải được phản biện nghiêm túc và đầy đủ của các cơ quan nghiên cứu có kinh nghiệm, các nhà khoa học pháp lý uy tín. Chừng nào còn thấy dự thảo luật chưa bảo đảm chất lượng thì chưa nên gượng ép ban hành. Không thể làm luật theo kiểu giao khoán hoặc chạy theo tiến độ.

Năm là, phải dễ hiểu và minh bạch. Ngôn ngữ pháp luật phải rõ ràng, chính xác, minh bạch, cụ thể, ngắn gọn để mọi người đều hiểu và làm đúng như nhau. Pháp luật được ban hành để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống nên nội dung của pháp luật phải dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thi hành đối với đông đảo nhân dân lao động. Dễ nhớ, dễ hiểu và dễ thi hành, đảm bảo tính khoa học và tính đại chúng trong làm luật và đòi hỏi tính sáng tạo cao của nhà làm luật.

Tíêu chí minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở tính công khai rộng rãi của nó. Việc ban hành văn bản pháp luật, sửa đổi, bổ sung hoặc tuyên bố hết hiệu lực thi hành đều phải được thông báo rộng rãi đến tận người dân.

Sáu là, phải thường xuyên được hệ thống hoá, pháp điển hoá. Xã hội ngày càng phát triển và nội dung, lĩnh vực quản lý nhà nước cũng không ngừng được mở rộng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng nhiều. Trong đời sống xã hội, người bị quản lý cũng như người quản lý muốn có quyết định đúng luật phải tra cứu, tham khảo nhiều quy phạm pháp luật nằm rải rác trong các văn bản pháp luật. Muốn đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào, nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng hàng loạt văn bản pháp luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, các luật thuế, Bộ luật Lao động,… Để giúp công dân và tổ chức tra cứu thuận tiện thì Nhà nước cần tổ chức tốt công tác hệ thống hoá pháp luật theo các lĩnh vực quản lý.

Đời sống xã hội diễn ra vô cùng phong phú, sống động và nhà làm luật không thể lường trước được mọi góc độ, khía cạnh của các vấn đề, không thể dự báo được chính xác mọi tình huống sẽ xảy ra. Nhà làm luật trên cơ sở của thực tiễn sáng tạo ra đạo luật và đến khi đạo luật thâm nhập vào đời sống lại gặp muôn vàn tình huống mới. Điều này đòi hỏi pháp luật phải sửa đổi, bổ sung và nếu cần thiết phải hướng dẫn thi hành để áp dụng thống nhất. Việc sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thi hành pháp luật cần được thực hiện thường xuyên. Đây chính là công tác pháp điển hoá pháp luật. Nhà nước cần có kế hoạch nâng cao dần trình độ pháp điển hoá pháp luật cho cán bộ, công chức nhằm loại bỏ các mâu thuẫn, trùng lặp, chồng chéo, lỗi thời của pháp luật hiện hành, bổ sung những điều luật mới rồi hệ thống hoá chúng lại thành các bộ luật như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự… để sau một thời gian nữa có thể xây dựng được Bộ Tổng luật cho quốc gia.

3. Trình độ, kỹ năng, nghệ thuật áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội

Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Để quản lý xã hội có hiệu quả, Nhà nước phải đồng thời làm tốt hai hoạt động gắn chặt với nhau là xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Muốn phát huy tính hiệu quả của một công cụ nào đó đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ, kỹ năng, nghệ thuật. Nghệ thuật sử dụng càng điêu luyện thì chức năng của công cụ càng được phát huy.

Thực hiện pháp luật được thể hiện qua các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Nếu mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện ba hình thức đầu thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước: Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật.

Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, các công chức nhà nước và các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao quyền. Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo cao. Người thực hiện áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có kỹ năng đạt đến trình độ nghệ thuật của nó. Cũng là một phiên toà xét xử về cùng một loại án, một tội danh, đối tượng phạm tội, hoàn cảnh phạm tội gần giống nhau nhưng kết quả xử không phải lúc nào cũng giống nhau, mà thậm chí còn trái ngược nhau. Dưới sự chủ toạ của Thẩm phán A, phiên toà diễn ra hết sức trang nghiêm, trật tự. Nội dung thẩm vấn công khai trước Toà đã làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và bản án được thông qua trước sự tâm phục, khẩu phục của bị cáo và những người chứng kiến cũng như dư luận. Tác dụng của bản án mang tính giáo dục sâu sắc. Nhưng với Thẩm phán B thì phiên toà diễn ra lộn xộn, các tình tiết vụ án không được soi xét kỹ lưỡng gây mất lòng tin của những người chứng kiến và bản án được thông qua tại phiên toà chưa thật đạt lý, thấu tình, dẫn đến kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, vấn đề ở đây không phải do lỗi của bản thân pháp luật mà do kỹ năng áp dụng pháp luật giữa hai thẩm phán khác nhau, người đạt trình độ nghệ thuật, còn người khác tỏ ra yếu kém.

Áp dụng pháp luật trong tất cả các lĩnh vực: quản lý hành chính, quản trị kinh doanh, sản xuất, dịch vụ… đều đòi hỏi phải đạt trình độ nghệ thuật. Cũng là giải phóng mặt bằng để xây dựng các dự án quốc gia nhưng trường hợp này thì được nhân dân ủng hộ, trường hợp khác lại bị dân chúng phản đối. Rõ ràng hai Hội đồng giải phóng mặt bằng có trình độ áp dụng pháp luật khác nhau. Gần đây, tại Thủ đô Hà Nội xảy ra một số trường hợp lái xe chống lại một cách quyết liệt việc yêu cầu dừng xe của cảnh sát giao thông. Lẽ dĩ nhiên lái xe vi phạm luật giao thông thì phải xử lý nhưng cách xử lý của một số cảnh sát giao thông tỏ ra vụng về, không thuyết phục và thậm chí chưa đúng luật.

Áp dụng pháp luật đạt đến trình độ nghệ thuật khi đáp ứng được các tiêu chí:

Phân tích kỹ lưỡng các tình tiết của vụ việc, tuyên truyền, giải thích pháp luật, biến tính bắt buộc của pháp luật thành tính tự nguyện, tự giác tuân thủ pháp luật của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần xem xét một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả những tình tiết của vụ việc, làm sáng tỏ những sự kiện có liên quan; xác định đặc trưng pháp lý của vụ việc và tuân thủ các thủ tục hành chính, tư pháp trong suốt quá trình xem xét vụ việc. Tiếp đó, nhà chức trách có nghĩa vụ lựa chọn các quy phạm pháp luật cụ thể phù hợp để giải quyết vụ việc. Người áp dụng pháp luật phải làm sáng tỏ nội dung và tư tưởng của quy phạm pháp luật được lựa chọn để bảo đảm áp dụng đúng pháp luật. Đây là quá trình đòi hỏi tư duy sáng tạo. Đối phó với pháp luật là phản ứng tự nhiên của nhiều người về mặt tâm lý khi pháp luật động chạm đến lợi ích riêng tư. Ví dụ như, trong việc giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án phát triển kinh tế của đất nước, có địa phương nhân dân ủng hộ và tích cực thực hiện việc bàn giao diện tích, di dời chỗ ở, nhưng cũng có nơi, dân phản đối, buộc chính quyền phải ban hành lệnh cưỡng chế và khi đương sự chống đối quyết liệt, điểm nóng phát sinh. Nếu người áp dụng pháp luật có trình độ đạt đến nghệ thuật, họ sẽ giải thích pháp luật rõ ràng và đầy đủ cho đương sự, làm cho đương sự hiểu được đâu là quyền và lợi ích hợp pháp, đến giới hạn nào là vi phạm thì hạn chế được các điểm nóng. Pháp luật là chung nhưng trình độ áp dụng pháp luật khác nhau, văn hoá pháp lý khác nhau nên kết quả trái ngược nhau.

Trong việc tuân thủ pháp luật đòi hỏi cơ quan nhà nước, các nhà chức trách phải làm gương mới có thể đưa pháp luật vào cuộc sống. Việc áp dụng pháp luật phải đúng đối tượng, đúng vụ việc, đúng pháp luật, công khai, minh bạch, khách quan, chí công vô tư. Người áp dụng pháp luật phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ thì họ sẽ hợp tác với chính quyền và tự nguyện chấp hành pháp luật. Nhân dân không chấp hành pháp luật trước hết lỗi thuộc về các nhà chức trách, chúng ta cần đứng từ góc nhìn đó để đánh giá trình độ, khả năng áp dụng pháp luật, thực thi công vụ của các nhà chức trách và yêu cầu họ tu dưỡng đạo đức, học tập nâng cao trình độ, kỹ năng áp dụng pháp luật

Phải đảm bảo sự hài hoà giữa các quy phạm tập quán, đạo đức với pháp luật trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trong đời sống xã hội tồn tại năm loại quy phạm xã hội tiêu biểu: tập quán, đạo đức, tôn giáo, quy phạm của tổ chức chính trị – xã hội và pháp luật, trong đó mọi công dân thường phải tuân theo đầy đủ ba loại quy phạm là tập quán, đạo đức và pháp luật. Trên thực tế có nhiều trường hợp xảy ra xung đột giữa các loại quy phạm ấy. Đối với người dân, một nhà chức trách mẫu mực, biết xử sự là người vừa biết tôn trọng phong tục, tập quán của địa phương, vừa biết giữ gìn đạo đức tư cách của mình và gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật. Khi tiến hành công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp, việc đảm bảo tính hài hoà giữa các quy tắc phong tục, tập quán, đạo đức và pháp luật cần được đặc biệt chú ý mới giữ vững được ổn định xã hội. Trong công tác lập pháp phải bảo đảm cho các quy phạm pháp luật là chỗ dựa vững chắc vừa để bảo vệ, phát triển thuần phong, mỹ tục, đạo đức cao đẹp, vừa để phòng chống, ngăn chặn, xoá bỏ các hủ tục.

Phải bảo đảm tính kịp thời trong hoạt động lập pháp, lập quy.

Pháp luật đòi hỏi tính ổn định cao nhưng như thế không có nghĩa là nó bất biến, mà phải được kịp thời huỷ bỏ, sửa đổi các quy định đã lỗi thời, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội đang biến đổi rất nhanh trong nền kinh tế thị trường. Lịch sử lập pháp của Việt Nam cho thấy, không hiếm trường hợp nhờ kịp thời ban hành pháp luật mới nên Nhà nước Việt Nam củng cố được vị thế vững chắc của mình về đối nội và đối ngoại, bảo đảm đất nước ổn định và phát triển bền vững. Trong công cuộc đổi mới, nhờ kịp thời sửa đổi, bổ sung nên hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng tương thích với các hệ thống pháp luật trên thế giới và điều đó bảo đảm nước ta hội nhập thành công vào khu vực và thế giới.

Chú thích:

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47 (1986), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 456-457.

TS. Lê Quốc Hùng – Gv trường ĐH Đông Đô

Theo: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử

TẢN MẠN VỀ XUÂN

Lớn lên ở làng quê nên với tôi mùa Xuân là những hương đồng, gió nội và những cơn mưa phùn rả rích. Từ trong một ký ức rất xa, tôi luôn thấy những hình ảnh của một làng quê nhỏ bé, xưa cũ và phảng phất buồn trong mưa. Có ai đó viết về làng quê của tôi là “làng lúa, làng hoa” nên mùa xuân ở làng quê tôi cũng là mùa của sắc màu.

Lớn lên ở làng quê nên với tôi mùa Xuân là những hương đồng, gió nội và những cơn mưa phùn rả rích. Từ trong một ký ức rất xa, tôi luôn thấy những hình ảnh của một làng quê nhỏ bé, xưa cũ và phảng phất buồn trong mưa. Có ai đó viết về làng quê của tôi là “làng lúa, làng hoa” nên mùa xuân ở làng quê tôi cũng là mùa của sắc màu. Tôi yêu những điều giản dị ấy, những điều mà chỉ riêng mùa Xuân ở làng quê tôi mới có.
Khi cái rét buốt của mùa Đông đang đậm bỗng nhường chỗ trong giây lát cho một chút ấm nồng, bỗng nhiên trời xanh lên cao và những tia nắng phớt nhẹ “thế rồi mùa Xuân đến”. Trong chúng ta ai cũng mong đợi mùa xuân để xóa đi cái lạnh của những ngày đông giá, vậy mà khi Xuân đến vẫn cứ luôn bất ngờ. Bởi vì xuân quá đỗi dịu dàng. Mùa xuân ở làng quê tôi đẹp như một nàng thiếu nữ, trên môi luôn chúm chím sắc màu vàng của cánh đồng lúa chín và ánh mắt long lanh như giọt sương buổi sớm. Xuân đẹp mơ màng, mong manh.

Bởi vì xuân là giao hưởng của đất trời nên hoa lá tưng bừng mở hội. Trong những con đường làng, trên những cánh đồng, trên những mái nhà, tràn cả ra khắp thôn xóm là hoa và lá. Làng quê tôi mùa Xuân đến là yêu kiều đến thế, làm cho người ta phải sững sờ và đam mê. Mùa xuân ở làng quê chỉ cần đơn giản ngồi lại dưới hiên nhà, bên một chén trà, lắng nghe tiếng chim hót, tiếng gió thổi thì ta cảm thấy cuộc sống thật chan hòa và đẹp đẽ vô cùng. Mùa Xuân ở quê tôi thơ mộng đến vô cùng, nó đã cho tôi một sự đồng “Cảm Xuân” với Bảo Định Giang:

Ngồi ngắm chim ca trong nắng sớm

Nằm nghe suối hát khoảng đêm dài

Yêu đời ra sức chăm vườn cũ

Cho khúc nhạc Xuân trỗi giữa đời.

Xuân cứ đi rồi trở lại. Mỗi mùa Xuân là một mùa khác, mỗi mùa qua là một tôi khác. Xuân về, tức nhiên là Tết đến rồi. Những ngày lễ Tết thì lúc nào cũng thật hay, thật thích. Tôi cũng thích được dành một chút thời gian ở làng quê trong mùa Xuân để cảm nhận cái cảm giác ấm áp của tình làng, nghĩa xóm. Mọi cảm giác cùng làng quê đều hết sức tuyệt vời. Nếu mùa Xuân nào chúng tôi cũng cùng nối tay nhau đi dạo quanh cánh đồng để ngắm những bông lúa vàng trĩu hạt, để ngửi mùi hương của những hoa cỏ dại và để cho những cọng cỏ quấn vào chân một cách thích thú thì hay biết mấy.

Xuân ở làng quê tôi là như thế, còn mùa Xuân ở thành phố thì không thơ mộng như vậy mà rất nhộn nhịp. Trong những nẻo đường thành phố, đèn đường cũng không soi tỏ mọi thứ. Thành phố dịp Xuân sang là một bức tranh đủ màu. Những gam màu sáng nổi bật lên bởi những gam màu tối. Và những gam màu tối chìm dần đi trong ánh sáng mập mờ. Người thành phố cũng sắp đón Tết rồi! Mỗi người lại mang trong mình những thứ tình cảm khác nhau giống như bức tranh mà họ đang vẽ nên. Ngoài sân ga, bến xe và bến tàu những người xa quê trở về nhà. Họ lục tục kéo nhau trở về quê hương. Họ đã xa quê bao nhiêu năm rồi nhỉ? Năm năm, mười năm hay chỉ mới vài tháng. Thành phố nay vắng người hơn khi họ đi tìm những ngôi nhà với khoảng vườn trước ngõ, với nắng trưa nhè nhẹ, và tiếng chim thi thoảng đưa theo gió. Những người ở lại với thành phố mỗi người cũng mang một tâm trạng khác nhau. Có người vừa mất đi người thân, niềm vui đón Xuân chưa đến, nỗi buồn đã chợt dâng trào, biết bao điều muốn nói với người ra đi cũng không còn nói được. Có người ở nhà suốt những ngày tết, tưởng chừng Xuân không đến bên mình, không đi chơi cùng bạn bè, không lang thang qua những đường phố lung linh bao ánh đèn. Xuân sẽ đến và xoa dịu nỗi đau cho họ. Xuân sẽ đến thành phố bằng hoa mai màu vàng, câu đối màu đỏ, bằng nụ cười trẻ thơ, bằng gió lạnh của phương xa. Xuân sẽ đến, sẽ đến…

Và khi Xuân đến trong chúng ta ai cũng thích chúc tụng và muốn nghe những câu an lành, may mắn gặp nhiều điều như ý trong cuộc sống. Nhưng rồi khi chim én thôi liệng trên trời cao, xác pháo nằm xơ xác, im lìm dưới gốc mai vàng buồn bã từng cánh rơi tàn theo cơn gió Hạ, và rồi lại đến mùa Thu dịu dàng cười mỉm, làm đắm say bao lòng người thi sĩ. Chưa thỏa lòng giao cảm tình Thu với bao luyến lưu sông núi, cỏ cây, thì lại đến cái giá lạnh của mùa Đông. Xoay vần bốn mùa cứ thế nối tiếp hợp tan làm cho con người cũng vì đó mà trôi theo dòng đời sanh diệt. Càng bị thời gian cuốn trôi và sống trong sự chi phối của ngoại cảnh, chúng ta càng trầm luân trong hợp tan, thương ghét, hạnh phúc, khổ đau. Cứ thế mà đi trong đêm dài vô minh với con đường lầm kiến, chấp trước. Bởi lẽ không thoát ngoài ràng buộc của vọng niệm, nên mùa Xuân của chúng ta chỉ quanh quẩn trong món ăn ngon, quần áo mới và những bóng dáng màu sắc tạm bợ của thế gian. Cho nên nếu chúng ta càng dấn thân vào vòng vây giới hạn của mùa Xuân thì chúng ta càng bị thời gian vô thường quay cuồng trong sự khổ đau triền miên thì không bao giờ được sống với “Xuân bất tận” của Nhất Tâm:

Nghe gió Đông về trong trở trăn

Chuyển mình vạn vật đón Xuân hoàng

Thời gian vô tận Xuân vô tận

Vũ trụ vĩnh hằng đời vĩnh hằng

Cũ mới xoay dần cơ tiến hóa

Mất còn tiếp nối cuộc tuần hoàn

Đất trời rạng rỡ mùa giao hội

Thu mãn Đông tàn Xuân lại sang.

Như vậy, từ Xuân ở làng quê cho đến Xuân ở thành phố thì tất cả cũng đều là Xuân thôi! Tôi luôn cảm thấy mình bối rối và không tài nào diễn tả được hết những gì mà mùa Xuân đã khiến tôi cảm thấy, những ngôn từ khốn khổ, những nốt nhạc sai khuông… làm cho tôi phải ngoảnh nhìn lại những năm tháng sống xa quê hương với bao nghiệt ngã thăng trầm, trong cuộc sống vốn nhiều những danh lợi, hơn thua, quyền chức. Trong chúng ta nào ai có được phút giây huyền diệu, thiêng liêng nghe tiếng chuông chùa vọng đưa theo làn gió nhẹ giữa trời khuya với tiếng suối chảy rì rào, hòa điệu cùng âm thanh của muôn côn trùng, và càng không thể nào thấy được ánh trăng thanh hiền hòa, dịu mát trên mái chùa trong những đêm rằm, cho nên khi nhẹ bước trên đất mẹ, là khi chúng ta được trở lại cố hương của chính mình mà sống lại với những gì êm ái, sâu lắng, đậm đà nhất cho cuộc đời mình trong tràn đầy sức sống Xuân như tâm sự của Hải Phương:

Cây cối tiết Xuân chồi lộc lá

Rêu phong mái ngói, dấu thời gian

Khói hương thoang thoảng đưa theo gió

Ngan ngát hoa lan cạnh cổng chùa.

Chúng ta hãy dành cho mình một giây phút để quay về với tâm linh của chính mình thì thấy lòng mình thật êm ả và sống với cái hằng hữu mà nhìn Xuân như Đặng Hữu Ý:

Buổi sáng trước liêu vắng

Không một cánh mai vàng

Nhà sư thức dậy sớm

Tự biết Xuân vừa sang.

Trong mùa Xuân tươi đẹp tô thắm núi sông và giữa đất trời bát ngát một sức sống mãnh liệt với muôn ngàn kỳ hoa, dị thảo, thì chúng ta hãy để hồn mình hòa vào núi sông cho thêm nhiều ý nghĩa và thi vị. Giữa cuộc đời vốn lắm nhiều đau thương, bi lụy, chỉ có giác ngộ và thật sự giải thoát thì mới có một mùa “Xuân không hạn cuộc”.

Vậy, chúng ta hãy thức tỉnh và trở lại cuộc sống bình thường để lắng nghe hơi thở của mình với nhịp đập quả tim trong từng giờ, từng phút thì lòng chúng ta mới nhỏ nhẹ gọi “Xuân ơi”.

 

Viết bởi Thuần Nguyên

Nguồn: Tập san Pháp luân 59

TẢN MẠN SÔNG QUÊ

Ở cái tuổi xế chiều, những lúc thư thái bạn bè chúng tôi thường hay rủ nhau đi bách bộ quanh làng, nhất là hay xuống đầu cầu dòng sông Cái, ngồi với nhau chiêm nghiệm cuộc đời, ôn lại những kỷ niệm dòng sông quê.Con sông Cái xưa có chiều rộng đến ba cái sào thuyền, dài vài km, chảy song hành theo điền trang Tri Chỉ thuộc xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đứng ở đầu cầu thả tầm mắt, dòng sông Cái như chiếc đòn gánh bạc màu cong cong mang nặng trên đầu hai vựa lúa vàng óng.

Ở cái tuổi xế chiều, những lúc thư thái bạn bè chúng tôi thường hay rủ nhau đi bách bộ quanh làng, nhất là hay xuống đầu cầu dòng sông Cái, ngồi với nhau chiêm nghiệm cuộc đời, ôn lại những kỷ niệm dòng sông quê.

Con sông Cái xưa có chiều rộng đến ba cái sào thuyền, dài vài km, chảy song hành theo điền trang Tri Chỉ thuộc xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đứng ở đầu cầu thả tầm mắt, dòng sông Cái như chiếc đòn gánh bạc màu cong cong mang nặng trên đầu hai vựa lúa vàng óng.

 


Một góc dòng sông Cái ngày nay đã bị thu hẹp. Ảnh: Thái Hà

Ngày trước, chưa có đê ngăn sóng, thuyền bè đi lại thông thương, chiều chiều những cánh buồm nâu căng gió từ biển rộng chạy vào như những cánh bướm khổng lồ chập chờn trên sóng lúa. Sông Cái xưa có tên là dòng Xích giang, là tên trong tiền sử. Theo các cụ kể lại, “Xích” là đỏ, có thể dòng sông mang nặng phù sa, thắm đỏ hay trong chiến thắng oanh liệt “Thủy chiến cửa Đại Bàng”, máu giặc Nguyên Mông đã nhuộm đỏ dòng sông nên người dân đặt tên như thế. Xích giang đi vào truyền thuyết khi triều đại nhà Trần cắm đất Tri Chỉ làm trang ấp ban cho các tướng sĩ có công gìn giữ giang sơn, mở mang bờ cõi.


Ngôi đình thờ hai tướng quân Trần Đông và Trần Điển từng sát cánh cùng quân dân nhà Trần cứu giá vua và đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược cửa biển Đại Bàng. Ảnh: Thái Hà

Ngày còn nhỏ, mỗi khi hè về, trẻ trâu chúng tôi chơi trò quân xanh, quân đỏ, mở trận vượt sông, có những đứa mới bơi ra đến giữa dòng sông đã mệt nhoài, may có bác quăng chài chao vớt mới thoát nạn. Những đứa bạn gái chân yếu tay mềm chỉ thích chơi thả thuyền bằng lá cây vông; những chiếc lá vông như hình trái tim nối đuôi nhau dập dềnh trôi dạt.

Dòng sông Cái thuỷ chung, chiu chắt con cá, con tôm như của hồi môn sông mẹ trao con. Sông Cái thông nước với biển nên rất nhiều cá, lũ trẻ chúng tôi thường theo người lớn đi úp nơm. Lần nào đi úp nơm cũng được cá, có những lần được cá to, đầu cá đóng chặt miệng nơm trên, đuôi còn chờn vờn ra ngoài miệng nơm dưới. Người dân quê tôi thường bảo nhau “Tháp Mười đã hơn gì sông Cái quê ta”.


Bến sông quê. Ảnh: Thái Hà

Những buổi chiều mở cống Cái đưa nước vào cánh đồng, vực trong cống như ngày hội “nghề bắt cá”, xăm, te, vó, lưới bao nhiêu thứ đồ nghề chen nhau thao tác, vòng trong, vòng ngoài. Tiếng nói, tiếng cười âm vang cả một khúc sông vùng bãi.

Người vùng biển có biệt tài cất vó ngửa. Họ bơi đứng hàng giờ ở độ sâu vài ba mét nước, dìm cái vó ngầm dưới nước ở tư thế ngửa, thi thoảng dùng sức cất cái vó lên cũng ở tư thế ngửa, vớ đàn cá ăn nổi, kiếm được cả hàng yến cá. Những buổi bãi ngoài rặc nước, một đạo quân hùng mạnh già, trẻ, gái, trai lưng mang những cái giỏ bồ, vai vác những chiếc cần câu dài trông như một đơn vị thông tin hành quân. Dân làng tôi đi câu con cáy, con còng về làm mắm ăn, thứ đặc sản nổi tiếng tới bây giờ. Rồi mùa tháng mười gặt hái, nước tháo kiệt đồng, cá tôm dắt cạn phơi trắng ruộng. Ngày 10-10 Tết cơm mới, toàn dân đi đánh cá sông cứ vui vẻ như trảy hội.


Mỗi khi có mưa, cá ngược dòng nhiều là lúc người dân đi cất vó bắt cá. Ảnh: Thái Hà

Những lúc ngồi ngắm trăng thu, hồi tưởng về sông quê, âm thanh, màu sắc đến xốn xang, tôi nghe rất rõ tiếng cá đớp mồi tơm tớp dưới tán cây sú bần bên lạch nước; tiếng tôm búng lao xao mặt nước, tiếng cá vược đuổi mồi phá vỡ vầng trăng trong đáy nước sóng sánh, cả dòng sông như có ai dát vẩy vàng, vảy bạc và triệu triệu tinh tú mênh mang cả một vùng sông nước bãi triều.

Sóng nước dòng sông êm đền cứ thì thầm muôn thưở, như tiếng ru hời à ơi con trẻ. Bao mùa mưa, bao mùa măng tre cóc cọc, những đứa trẻ chúng tôi đã lớn lên theo thời gian cùng dòng chảy sông quê. Có người trở thành ngư dân gắn bó với sóng gió quê biển, có người là kỹ sư, bác sĩ, là chiến sĩ công binh nối cầu cho những dòng sông; anh lính phòng không buông diều chạy dọc hai bờ sông Cái cho nhiễu loạn đường bay của máy bay giặc Mỹ từ biển đông vào đánh phá Thị xã Thái Bình…


Nét hồn nhiên tuổi thơ. Ảnh: Thái Hà

Chúng tôi ra đi trên khắp các nẻo đường đất nước, đều bắt đầu từ bến sông quê, sau nhiều thập kỷ, ngày trở về với dòng sông quê không thể đủ đầy bè bạn, ngồi với nhau ngẫm suy về dòng sông quê xưa và nay mà thấy cay cay khóe mắt.

Ra đi từ dòng sông Cái, có người bạn già trở về thăm quê, cứ tần ngần, bỡ ngỡ như tưởng mình lạc lối. Quê hương tôi đổi thay đến chóng mặt, tất cả các tuyến đường giao thông trong xã được nhựa hóa, bê tông hóa, nhà mái bằng, nhà cao tầng mọc lên san sát như những bức tường thành che khuất cảnh làng quê. Ngôi đình Cả là một trong 13 ngôi đình của cả tỉnh Thái Bình còn giữ được các nét văn hoá cổ xưa ẩn khuất ở ngã tư làng càng tăng thêm nét cổ kính cho quê biển.

Ở cái tuổi “thất thập cổ lai hi”, giờ đây, ngày ngày đi bên dòng sông Cái, ký ức xưa về dòng sông Cái êm ả thanh bình, cá tôm đầy ắp cứ cuộn về trong tôi.

TẢN MẠN VỀ NHỮNG “CÁI CHẾT” KHÔNG NHÌN THẤY

TuanVietNam) – Chúng ta ít nhất một lần đã nổi giận về sự ngột ngạt, về những cuộc tắc nghẽn giao thông trong cái nóng hầm hập, về một ngày nghỉ không biết tìm đâu một nơi yên tĩnh của thiên nhiên, về những ngột ngạt vô cớ trong lòng chúng ta… Chúng ta đang bị chính chúng ta giết dần, giết mòn…

TuanVietNam) – Chúng ta ít nhất một lần đã nổi giận về sự ngột ngạt, về những cuộc tắc nghẽn giao thông trong cái nóng hầm hập, về một ngày nghỉ không biết tìm đâu một nơi yên tĩnh của thiên nhiên, về những ngột ngạt vô cớ trong lòng chúng ta… Chúng ta đang bị chính chúng ta giết dần, giết mòn… Khi hơi nóng vừa mới chờm qua thành phố thì chúng ta đã nhận ra chúng ta đang sống trong một “sa mạc”. Những ngôi nhà bê tông bắt đầu được nung nóng bởi nắng trời và thiêu đốt chúng ta. Chúng ta bị nhốt trong một thế giới trùng trùng những bức tường khô nóng và vô cảm.

Vào buổi chiều và buổi sáng, chúng ta, những công dân của một thành phố lớn nhất Việt Nam giống như những con cá sặc bùn lao đến những nơi nào có thể thở được. Các công viên lớn nhỏ và những khoảng không gian còn một chút thoáng đãng của thành phố như mảnh đất cuối cùng chưa bị ngập nước. Và chúng ta giống những con kiến chạy nước dồn hết vào đó.

Hơi nóng và sự ngột ngạt của một không gian đang từng ngày bị hủy hoại làm chúng ta nhiều lúc tưởng hóa điên. Đã nhiều năm nay, chúng ta đã được nghe những lời than thở như một tiếng kêu vô vọng của những người quanh mình: “Ngột ngạt quá, chết mất thôi”.

Nhưng cả những khoảng trống còn lại trong thành phố cũng mù bụi và ngột ngạt. Cảm giác thành phố không đủ oxy để thở luôn luôn ám ảnh chúng ta ngay cả khi ngồi trong nhà mình hay trong công sở sang trọng đầy tiện nghi.
Mấy năm trước, khi đi qua những khu đất rộng ở quanh khu Mỹ Đình, không ít người lại mơ về những khu rừng nhỏ trong thành phố. Nhưng sau cơn mơ ấy người ta lại bị nỗi sợ hãi xâm chiếm khi nghĩ đến một lúc nào đó những khu đất ấy lại dựng lên một thế giới bê tông và cướp mất đi một nơi để chúng ta thở. Và nỗi sợ hãi ấy đã và đang từng ngày trở thành hiện thực.

Tại sao lại không giành những khu đất như vậy để biến chúng thành những rừng cây? Đó chính là những lá phổi tối quan trọng giữa những khu đô thị như một khối bê tông đặc. Có phải chúng ta không hiểu biết? Không phải thế. Tất cả đều nhận thức được điều đó. Nhưng có lẽ lòng tham trước mắt và sự vô trách nhiệm đã biến chúng ta thành những “tội đồ” của chính thành phố mà mình sống và chết trong đó.

Linh hồn của những hồ nước bị bức tử

Tôi có một người bạn thường mang những cơn mộng mị u buồn trong giấc ngủ. Anh thường mơ thấy những hồ nước xanh như ngọc bay lơ lửng trên bầu trời thành phố đêm. Anh gọi đó là linh hồn những hồ nước đã bị bức tử.

Thật sự đã có người nghĩ anh bị bệnh tâm thần và khuyên anh đến khám bác sỹ. Nhưng đấy đâu phải là một căn bệnh. Đấy là một giấc mơ đau đớn khi chính chúng ta đã lấn chiếm hoặc san lấp những hồ nước để xây dựng những khối bê tông quỉ quái.
Chúng ta đang đối xử tàn nhẫn với thiên nhiên. Chúng ta lấn chiếm hồ nước và chặt phá cây xanh ngay trong thành phố ngột ngạt và ô nhiễm nặng nề của mình. Chúng ta không thể trả lời được vì sao những hồ nước, những món quà vô giá của thiên nhiên ban tặng, lại bị chúng ta xả những nguồn nước ô nhiễm, vứt các loại rác thải.

Chúng ta tự tin một cách hợm hĩnh khi ngả lưng trên những chiếc ghế hay những chiếc giường đắt tiền trong một căn phòng máy lạnh và cứ ngỡ rằng không một hạt bụi nào dính vào chúng ta và không một làn khói xe nào lọt vào buồng phổi chúng ta.

Và khi ra đường, chúng ta tự tin đã có những chiếc xe hơi sang trọng và những chiếc khẩu trang tội nghiệp đang bảo vệ chúng ta khỏi những ô nhiễm chết người. Bởi thế chúng ta tùy tiện phá hoại những bức tường xanh bảo vệ sự sống của mình.

Trong chúng ta, hầu hết mọi người đã từng ngồi trong những quán cơm bụi. Chúng ta gọi những món ăn mà chúng ta tin tưởng rằng sẽ tăng cường sức khỏe. Nhưng nếu chúng ta nhìn sang bên cạnh, chúng ta sẽ thấy những rãnh nước đen ngòm đầy “sát khí” chảy sát ngay chân ghế của một quán cơm bụi hay một quán bia hơi.

Nếu chúng ta thử quên đi một giây khắc mùi của chim quay, gà rán chúng ta sẽ thấy mùi của những rác bẩn trong cống rãnh bên đường và mùi của những con chuột chết chúng ta vừa mới vứt ra đường đêm trước một cách tự nhiên. Nếu chúng ta nhìn xuống chân mình, chúng ta sẽ thấy giấy lau miệng đầy mỡ và xương gia súc được nấu chín tràn ngập bên những đôi giày nhập ngoại.

Nếu chúng ta nhìn thấu qua những bức tường vào tận khu bếp của nhà hàng, chúng ta sẽ nhận ra những túi thực phẩm được tẩm ướp bằng chất hóa học chết người hay những gia súc đã chết hoặc mang bệnh. Chúng ta đang say sưa hưởng lạc những mầm mống của bệnh tật một cách hống hách. Chúng ta đang chết dần chết mòn bởi chính mình mà không hay biết.

Tham lam làm người ta trở nên lú lẫn và độc ác với chính mình

Bạn đã bao giờ nhìn thấy những người già tập dưỡng sinh trên một hè phố còn may mắn đủ rộng và ít hàng quán chưa? Họ tập dưỡng sinh nhưng giống như những chiến binh đang vung gươm ở giữa sa trường. Bởi quanh họ là tiếng xe động cơ gào rú, là mù mịt khói xả từ khí đốt, rồi bụi đường, rồi rác thải. Tôi đã từng dừng lại nhìn những người già tập dưỡng sinh vào một buổi chiều nhưng lại đeo khẩu trang.
Một hình ảnh kỳ dị mà thương cảm. Chúng ta sợ hãi bệnh tật và cái chết. Nhưng chính chúng ta là những kẻ nuôi dưỡng bệnh tật và cái chết đó cho chính bản thân mình. Chúng ta đều biết và hiểu những điều này. Nhưng sự tham lam trước mắt đã làm chúng ta trở lên lú lẫn và ác độc với chính mình. Nếu chúng ta công bằng nhìn lại bản thân mình, chúng ta sẽ thấy chúng ta thảm hại đến nhường nào.

Chúng ta cũng đang đối xử tàn nhẫn với những công trình văn hóa vô giá mà tổ tiên, ông bà chúng ta đã xây dựng lên. Rất nhiều công trình văn hóa và lịch sử ở trong chính thành phố của chúng ta đang ngày càng bị xiết chặt như người ta xiết sợi dây vào cổ một con người. Xung quanh những công trình văn hóa và lịch sử vô giá ấy, chúng ta cho phép xây dựng rất nhiều công trình phi văn hóa và phi kiến trúc.

Lẽ ra, xung quanh những công trình vô giá ấy, chúng ta phải có một không gian thiên nhiên và văn hóa khác phù hợp với những công trình văn hóa và lịch sử kia. Tại sao chúng ta lại không làm được điều đó? Nếu chúng ta không làm được điều đó thì chúng ta đang xây dựng một thành phố như thế nào và vì cái gì?

Chúng ta có luật pháp. Chúng ta phải tuyên truyền và cả bắt buộc mọi người sống và làm việc theo pháp luật để cho lợi ích chung và lâu dài của toàn xã hội. Chúng ta không thể hiểu được vì sao một ngôi nhà  không chịu chuyển đi đến nơi định cư mới mà chúng ta phải phải dừng lại toàn bộ công trình lớn của đất nước?

Những ngôi nhà siêu mỏng mà báo chí đã nói đến rất nhiều trở thành những câu chuyện bi hài của xã hội chúng ta. Hay phải chăng chúng ta không có một chiến lược ? hay phải chăng chúng ta đã không công bằng? Hay phải chăng chúng ta vì một người mà quên đi lợi ích của muôn người? hay phải chăng luật pháp chỉ là một cuốn sách in đẹp nhưng không ai đọc?

“Nếu đến đó, bạn sẽ thấy một phần của Thiên đường”

Australia là một trong những đất nước có thiên nhiên và môi trường tốt nhất thế giới. Tôi được biết, chính quyền thành phố Sidney đã từng quyết định bỏ đi nhiều khu nhà cao tầng để làm những công viên. Họ đã cẩu những cây cổ thụ về trồng trong những công viên đó.

Họ có chiến lược làm sạch hóa hay thiên hóa chính những thành phố siêu phát triển của họ. Nếu nghĩ về lợi ích trước mắt và lợi ích của một số cá nhân hay một số tập đoàn thì họ không bao giờ làm được điều đó. Nhưng họ nghĩ đến lợi ích lâu dài cho toàn xã hội mà trong đó có chính bản thân họ và con cháu họ sau này.
Lợi ích của toàn xã hội là mục đích cao nhất mà mọi người phải hành động vì mục đích ấy. Khi người Australia xây dựng thủ đô mới của họ, Canberra, họ dành một diện tích rất lớn để đào một hồ nước. Hồ nước này được mang tên kiến trúc sư người Mỹ, người đã thiết kế thủ đô Canberra.

Và xung quanh hồ nước khổng lồ ấy là một thiên nhiên rộng lớn và kỳ diệu. Nếu bạn đến đó, bạn sẽ thấy nơi đó giống như một phần của Thiên đường. Thiên nhiên của Australia rất rộng lớn và phong phú, nhưng họ vẫn muốn làm cho thiên nhiên quanh họ rộng ra và rộng ra mãi.

Bởi nếu không có thiên nhiên ấy, không có một môi trường trong sạch ấy, bệnh tật sẽ đến với họ. Mà trong đó, có một căn bệnh không chết người nhưng giết chết tinh thần họ. Đó là căn bệnh của sự trầm cảm và vô cảm. Theo các nhà nghiên cứu tâm sinh lý thì những đứa bé được nuôi dạy trong một thiên nhiên trong sạch và hài hòa sẽ phạm tội ít hơn vài chục lần so với những đứa bé sống trong một thế giới mà thiên nhiên bị hủy hoại hay bị tách rời khỏi thiên nhiên. Và nhiều trung tâm y học trên thế giới đã dùng thiên nhiên để chữa bệnh trầm cảm, tự kỷ, vô cảm… của những đứa trẻ và cả những người lớn.

Tuổi thơ của con cái chúng ta có bao phần hoà vào thiên nhiên?

Nhưng chúng ta đã không nghĩ đến điều đó. Ngay trong chính một mảnh đất chúng ta có thì chúng ta cũng không biết cách làm một khu vườn nhỏ như tạo ra một thiên nhiên cho mình. Chúng ta xây một tòa nhà thô thiển thật to với những căn phòng rộng quá mức và nhét vào đó đủ thứ đồ đạc và tiện nghi của một kẻ trọc phú. Có phải chúng ta không biết những điều tôi vừa nói đến đâu.
Hàng năm, chúng ta có biết bao đoàn đi thăm quan, học tập ở các nước tiên tiến. Nhưng hình như khi trở về, chúng ta lại quên ngay những gì mình đã tận mắt nhìn thấy. Chúng ta đang thu hẹp dần thiên nhiên quanh mình bằng lòng tham đôi khi chỉ là lấn chiếm thêm mấy trăm xăng-ti-mét cho cái móng nhà của chúng ta.

Có biết bao lối ngõ ở thành phố càng ngày càng bị thu hẹp lại và trở thành một cái hang chuột khổng lồ. Và hàng ngày, chúng ta chen lấn trong những lối ngõ ẩm thấp, lầy lội và chật chội như thế để tìm về ngôi nhà của mình mà ít khi có tia nắng hay ngọn gió nào vào được.

Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vào ngày nghỉ cuối tuần bạn sẽ đưa những đứa con của mình đi đâu? Câu hỏi giản đơn này nhưng chúng ta thật khó trả lời. Những đứa trẻ sẽ ra sao khi suốt tuổi thơ mình chúng không được hoà vào thiên nhiên trong sạch và đầy hấp dẫn. Chẳng lẽ chúng chỉ đến những nơi với các trò chơi điện tử và ăn gà rán KFC.

Chúng ta không thiếu tiền để xây những công viên nhiệt đới cho những công dân tương lai của mình. Bởi chính chúng ta đã và đang tiêu tiền vào quá nhiều những chuyện chưa cần thiết hoặc chỉ làm cho con người thêm mệt mỏi.

Ngay cả bản thân những người lớn chúng ta cũng không biết đưa gia đình mình đi đâu vào những ngày nghỉ. Chúng ta chỉ còn biết quanh quẩn trong ngôi nhà chật chội của mình giữa bốn bức tường bê tông vô cảm và u uẩn. Bởi đâu đâu trong thành phố cũng chỉ là xe máy, xe hơi  và những ngôi nhà bê tông nặng nề với một kiến trúc rối loạn.

Thiên nhiên có sức mạnh tựa như phép thiêng

Viết đến đây, tôi lại nhớ câu chuyện thật về đứa con thiểu năng của nhà văn Nhật Bản, Kenzaburo Oe (giải Nobel văn học ). Ông đã viết câu chuyện này và gửi tới bạn đọc toàn thế giới.

Đứa con trai của ông lên tám tuổi mà không có khả năng nói. Vào một mùa hè, Oe đưa con đến nghỉ ở một vùng rừng. Chiều chiều, ông thường cõng con từ khu nhà nghỉ đi trên một con đường nhỏ men theo cánh rừng. Từ cánh rừng chiều chiều ấy, tiếng chim đỗ quyên vọng ra da diết và quyến rũ.

Bỗng một chiều, đứa con trai ông bỗng kêu lên: “Bố ơi, chim kêu”. Ông sững người lại kinh hoàng. Ông đặt đứa con xuống và quay lại nhìn nó.
Phép thiêng nào đã giúp con trai ông biết nói. Cuối cùng ông đã nhận ra chính thiên nhiên kỳ vỹ với muôn vàn phép lạ mà chúng ta không biết hoặc không tin đã ban phước cho con trai ông. Cái thế giới đô thị nhiều lúc như ngạt thở, như điên loạn cho dù với những phòng thí nghiệm và khám chữa bệnh tối tân cũng không giúp được đứa bé. Nhưng thiên nhiên đã làm được những điều tựa phép thiêng ấy.

Tất cả những gì tôi đã viết ở trên chẳng là những điều gì to tát. Mà đó là những điều hình như ai cũng hiểu. Nhưng chúng ta không sao làm được điều đó. Chúng ta ít nhất một lần đã nổi giận về sự ngột ngạt, về những cuộc tắc nghẽn giao thông trong cái nóng hầm hập, về một ngày nghỉ không biết tìm đâu một nơi yên tĩnh của thiên nhiên, về những ngột ngạt vô cớ trong lòng chúng ta…

Nhưng ngay sau sự nổi giận ấy, chúng lại sẵn sàng lấn chiếm hoặc san lấp những hồ nước, những công viên và những khoảng không gian còn lại ít ỏi trong thành phố của mình. Vì sao chúng ta lại rơi vào bi kịch này? Vì chúng ta không hiểu biết hay vì chúng ta đã trở nên lú lẫn?

Hạnh Nguyên

(Theo tuanvietnam)