a27a3b73d355048c6bab885897085f62_M

SIẾT NHẬP KHẨU THỦY SẢN, DOANH NGHIỆP KHÓC RÒNG

Siết nhập khẩu thủy sản, doanh nghiệp khóc ròng

Hàng loạt doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu đang đứng trước nguy cơ phá sản. Quy định của Bộ NN-PTNT yêu cầu các cơ sở nhập khẩu thủy sản của nước ngoài vào VN phải thực hiện đăng ký và chịu sự kiểm soát của cơ quan chức năng VN. Từ đó, hàng chục doanh nghiệp (DN) nhập khẩu thủy sản đang đứng trước bờ vực phá sản vì không còn nguyên liệu chế biến.

Hàng loạt doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu đang đứng trước nguy cơ phá sản.
Quy định của Bộ NN-PTNT yêu cầu các cơ sở nhập khẩu thủy sản của nước ngoài vào VN phải thực hiện đăng ký và chịu sự kiểm soát của cơ quan chức năng VN. Từ đó, hàng chục doanh nghiệp (DN) nhập khẩu thủy sản đang đứng trước bờ vực phá sản vì không còn nguyên liệu chế biến Bỗng dưng… khó tính
Gần đây, Bộ NN-PTNT đã ban hành Thông tư số 06/2010/TT-BNNPTNT về việc quy định trình tự thủ tục kiểm dịch sản phẩm động vật trên cạn và sản phẩm thủy sản dùng làm thực phẩm, tiếp theo đó là Thông tư số 25/2010/TT-BNNPTNT hướng dẫn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đối với hàng hóa động vật, thủy sản nhập khẩu. Theo đó, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa có nguồn gốc động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào VN phải được sản xuất bởi cơ sở sản xuất kinh doanh được cơ quan có thẩm quyền của VN công nhận đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về đảm bảo VSATTP theo quy định của VN. Mỗi lô hàng nhập khẩu phải kèm theo Giấy chứng nhận đáp ứng các quy định về VSATTP do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp và chỉ được đưa vào sản xuất hoặc tiêu thụ tại VN sau khi được cơ quan kiểm tra của VN thực hiện kiểm tra tại cửa khẩu hoặc nơi tập kết và cấp giấy chứng nhận hoặc thông báo đạt yêu cầu VSATTP. Trong trường hợp vi phạm, cơ quan chức năng sẽ đình chỉ xuất khẩu vào VN đối với cơ sở sản xuất kinh doanh có kết quả kiểm tra giám sát điều kiện đảm bảo VSATTP của cơ sở sản xuất kinh doanh không đáp ứng đầy đủ các quy định; đình chỉ nhập khẩu sản phẩm của nước xuất khẩu trong trường hợp kết quả kiểm tra giám sát cho thấy hệ thống kiểm soát VSATTP của nước xuất khẩu không tuân thủ các quy định của VN.
Quy định nói trên có thể được hiểu là nhằm hạn chế sản phẩm động vật phế thải tràn về VN như thời gian trước, ngoài ra còn góp phần làm giảm nhập siêu. Thế nhưng nếu chỉ áp dụng riêng cho sản phẩm động vật, hoặc thủy sản nhập khẩu để tiêu thụ nội địa thì còn có lý, đằng này thông tư 06 và 25 đã máy móc áp dụng luôn cho các mặt hàng thủy sản nhập khẩu làm nguyên liệu để chế biến, tái xuất, từ đó vô tình đã làm ảnh hưởng đến hàng chục DN cùng với hàng trăm ngàn công nhân. Thời hạn áp dụng quy định này từ ngày 1.7, sau đó được gia hạn đến ngày 1.9, nhưng đáp lại chỉ là sự bức xúc tột cùng của DN nhập khẩu thủy sản và sự tham gia miễn cưỡng của các nước khác.
Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiqad) đến nay chỉ gửi công hàm đến được 30 quốc gia và vùng lãnh thổ để yêu cầu việc đăng ký. Còn trên 40 thị trường khác Nafiqad không gửi được vì họ không có đại sứ quán tại VN, trong đó lại có những nơi cung cấp thủy sản lớn cho VN như đảo Vanuatu, Fiji, Solomon…
Trong số gần 80 thị trường nhập khẩu thủy sản vào VN, đến nay chỉ có 10 nước thực hiện việc đăng ký này.
Mất nguồn nguyên liệu, mất khách hàng
Thông tư 25 cho thời hạn áp dụng quá gấp, trong khi các thị trường nhập khẩu vẫn chưa nhận được thông tin gì từ cơ quan chức năng VN. Ông Nguyễn Xuân Nam, Giám đốc Công ty hải sản Hải Vương (Khánh Hòa), bức xúc: “Chúng tôi mỗi năm thu về kim ngạch trên 110 triệu USD nhờ nhập khẩu cá ngừ đại dương, sau đó chế biến tái xuất. Ai cũng biết nguồn hải sản ở VN đang cạn kiệt vì khai thác quá mức, trong khi do khả năng hạn chế, tàu cá VN rất khó đánh bắt được cá ngừ đại dương. Việc nhập khẩu nguyên liệu để chế biến đã giúp chúng tôi có được thêm thu nhập, giải quyết công việc ổn định cho công nhân. Nhưng với Thông tư 25, nhiều nước cung cấp nguyên liệu đã phản đối, một số nước thì thẳng thừng từ chối đăng ký, có nước cũng đồng ý đăng ký nhưng họ nói không biết đăng ký cái gì. Vì vậy chúng tôi đang mất đi nguồn nguyên liệu, mất khách hàng, hơn 2.000 công nhân nhà máy sẽ phải nghỉ việc”.
Ông Nguyễn Phạm Thanh, Tổng giám đốc Công ty Highland Dragon Enterprise, đại diện cho 4 nhà đầu tư nước ngoài khác tại Khu công nghiệp Sóng Thần 1 (Bình Dương), nói gần như khóc: “Tôi và nhiều DN khác đầu tư vào VN chế biến cá ngừ đóng hộp, mỗi năm nhập khẩu khoảng 4.000-5.000 tấn cá từ nước ngoài để chế biến. Chỉ riêng lĩnh vực này mỗi năm các DN đã mang về gần 500 triệu USD. Nhưng Thông tư 25 ra đời gần như làm ách tắc tất cả. Nguyên liệu dự trữ của chúng tôi chỉ đến giữa tháng 9 là hết, nhưng hiện nay chúng tôi không thể ký thêm hợp đồng mới. Gần 3.000 công nhân của chúng tôi sắp phải thất nghiệp. Chúng tôi không thể giải thích được với công ty mẹ, với đối tác của chúng tôi điều gì đang xảy ra ở VN. Chúng tôi cũng không hiểu tại sao Bộ NN-PTNT lại có thể quy định như vậy?”.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản VN (VASEP), cho biết: “Từ tháng 5.2010, VASEP đã liên tiếp có công văn kiến nghị Bộ NN-PTNT và có cả những buổi làm việc trực tiếp với Cục Thú y, Nafiqad… về những điều vô lý của Thông tư 25, nhưng cho đến nay, khi các DN đã bắt đầu nhìn thấy cảnh phá sản, những quy định này vẫn không được dỡ bỏ. Theo tôi, không cần thiết phải siết chặt các quy định nhập khẩu đối với hàng thủy sản nhập khẩu, bởi thực tế 90% nguồn hàng này được tạm nhập, chế biến và tái xuất, còn tiêu thụ nội địa rất ít”.

2964cd8751427f56b2f06582b92bec36_M

HÀNG LOẠT VỤ BỘI TÍN TRONG HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH THANH TOÁN

Hàng loạt vụ bội tín trong hợp đồng bảo lãnh thanh toán

Ký hợp đồng mua bán vì tin tưởng ngân hàng đứng đằng sau bảo lãnh, nhưng giờ đây nhiều doanh nghiệp có nguy cơ mất trắng vì đối tác mất khả năng thanh toán, mà ngân hàng cũng tìm lý do chối bỏ nghĩa vụ của mình.

Trao đổi với VnExpress.net, lãnh đạo một ngân hàng cổ phần quy mô lớn nhìn nhận, nghiệp vụ ký phát hành chứng thư bảo lãnh trái phiếu trước đây xảy ra khá ồ ạt vì đây là cách để các nhà băng lách “room” tín dụng. Trước đây mua trái phiếu doanh nghiệp không được tính vào dư nợ tín dụng của ngân hàng. Vì thế khi không còn hạn mức tăng trưởng tín dụng, ngân hàng gợi ý doanh nghiệp phát hành trái phiếu rồi họ đứng ra bảo lãnh. “Tuy nhiên, đó là chuyện của trước đây, khi Ngân hàng Nhà nước chưa tính phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu doanh nghiệp vào tăng trưởng tín dụng”, ông nói.

Tranh cãi giữa ngân hàng và một công ty tài chính về hợp đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu mới đây là một ví dụ điển hình. Công ty tài chính này đồng ý mua 150 tỷ đồng trái phiếu của một đối tác với điều kiện ngân hàng sẽ đứng ra thanh toán cả gốc lẫn lãi nếu có chuyện bất trắc xảy ra. Tuy nhiên, khi trái phiếu đến hạn, doanh nghiệp phát hành không thanh toán, ngân hàng cũng từ chối thực hiện nghĩa vụ với lý do chứng thư bảo lãnh đã được ký trái quy định.

Sự việc tương tự cũng xảy ra với một nhà băng quốc doanh cách đây vài tháng. Nhiều công ty đã bán thiết bị, nguyên vật liệu cho cùng một đơn vị là công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Tân Hồng ở Từ Liêm, Hà Nội dưới sự bảo lãnh chi nhánh ngân hàng này. Hàng đã giao tận tay, đến thời hạn trả tiền, Công ty Tân Hồng không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ của mình cho các công ty đã bán thiết bị. Lẽ ra, khi hết thời gian bảo lãnh, ngân hàng phải thay Tân Hồng Hà đứng ra thanh toán cho những đơn vị trên.

Nhiều nhà băng thoái thác trách nhiệm bão lãnh thanh toán vào phút chót. Ảnh: Hoàng Hà.
Nhiều nhà băng thoái thác trách nhiệm bão lãnh thanh toán vào phút chót. Ảnh: Hoàng Hà.

Thế nhưng, phía nhà băng từ chối trả tiền bảo lãnh và cho biết phải đợi phán quyết của tòa án bởi chứng thư bảo lãnh đang được Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh làm rõ. Hơn nữa, ngân hàng cho biết chứng thư bảo lãnh đó không hề lưu hồ sơ, và đã phát hành vượt thẩm quyền. Cuối cùng hai bên phải gặp nhau tại tòa để phân xử.

3 tháng trước, hàng chục khách hàng là đại diện cho một doanh nghiệp viễn thông đã vây kín trụ sở tại Hà Nội của một ngân hàng cổ phần để đòi nợ. Doanh nghiệp này cho biết, sau khi bán hàng cho một đối tác đã nhận được chứng thư bảo lãnh thanh toán (L/C) của ngân hàng trên. Tuy nhiên, quá thời hạn, công ty trên vẫn chưa nhận được tiền, còn ngân hàng thì từ chối trách nhiệm thanh toán khiến hoạt động của doanh nghiệp lao đao. “Không có tiền, hoạt động sản xuất của công ty đình đốn, lương công nhân thì phải thiếu nợ mấy tháng liền”, lãnh đạo doanh nghiệp này nói.

Nhiều doanh nghiệp cho rằng ký bảo lãnh thanh toán cũng như không. Ảnh: Hoàng Hà.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng ký bảo lãnh thanh toán cũng như không. Ảnh: Hoàng Hà.

Điểm chung của các trường hợp từ chối thanh toán là ngân hàng thường lấy lý do chứng thư bảo lãnh ký sai quy trình, không đúng quy định.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng cũng cho rằng, với mỗi nhà băng, uy tín vẫn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. “Nếu họ từ chối thanh toán với một chứng thư bảo lãnh hợp lệ thì họ đang vi phạm những nguyên tắc chung trong kinh doanh”, ông cho biết.

Đồng tình với ông Hiếu, một vị chuyên gia khác trong lĩnh vực tài chính nhìn nhận, rất khó để các doanh nghiệp có thể biết được những quy định nội bộ của một ngân hàng. Do đó, không nên đánh đố họ bằng cách này để họ tự phải xác định đâu là một hợp đồng, một chứng thư hợp lệ, không giả mạo.

Tiến sĩ Alan Phan, Chủ tịch Quỹ đầu tư Viasa Hong Kong thừa nhận hình thức ký phát hành trái phiếu bảo lãnh của các ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro. “Vì lẽ đó, ở Mỹ các ngân hàng ít sử dụng cách này. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp, nếu một nhân viên vượt quá thẩm quyền để ký phát hành hay làm điều gì đó thì trước hết, ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm về mặt pháp nhân với doanh nghiệp kia rồi mới xử lý nội bộ và xử lý nhân viên đó. Việc nhân viên của anh sai thì người ngoài đâu biết được”, ông Alan Phan phân tích.

Phân tích về khía cạnh pháp lý, Luật sư Trần Văn Đôn, Công ty TNHH Đông Phương Luật cho rằng, trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, bên nhận bảo lãnh sẽ gửi thông báo tới ngân hàng yêu cầu nhà băng thanh toán. Cam kết bảo lãnh thông thường có nội dung ngân hàng chấp nhận bảo lãnh trong phạm vi số tiền bảo lãnh là bao nhiêu và thời hạn bảo lãnh được xác định rõ. Trong thời hạn và hạn mức bảo lãnh đó, bên nhận bảo lãnh được yêu cầu ngân hàng thanh toán tiền bảo lãnh.

Trường hợp do vi phạm nội bộ, trước hết để bảo vệ uy tín của mình, hiếm có nhà băng nào cho rằng vì nguyên nhân như vậy mà không thanh toán. Bởi khách hàng không thể biết rõ được tình hình nội bộ, quản trị rủi ro của ngân hàng như thế nào nên không thể bắt khách hàng chịu hậu quả.

Luật sư cho biết thêm, căn cứ vào các quy định của pháp luật, nếu các bên nhận bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ thủ tục yêu cầu thanh toán mà nhà băng không thanh toán bảo lãnh thì nghiễm nhiên phía ngân hàng đã vi phạm cam kết. Vi phạm này sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự về lãi chậm trả…

Một chuyên gia khuyến cáo, chứng thư bảo lãnh là một thể thức thanh toán tiến bộ. Tuy nhiên, để tránh rủi ro cho các bên, bản thân ngân hàng cần quản chặt cán bộ ngân hàng, tránh xảy ra lạm quyền trong khi thi hành công vụ do ký chứng thư bảo lãnh thanh toán. Ngoài ra, nên thẩm định chặt chẽ các điều kiện, áp đặt các phương pháp bảo đảm rủi ro.

Thanh Lan – Lệ Chi

(Nguồn: VnExpress)

24d767ce6c156eb07b1fc26c266211f5_M

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CẢNH BÁO VỀ CHỨNG THƯ BẢO LÃNH GIẢ

Ngân hàng Nhà nước cảnh báo về chứng thư bảo lãnh giả

Cơ quan an ninh cho biết, chứng thư bảo lãnh giả là một hình thức tội phạm mới, có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho doanh nghiệp cũng như uy tín của ngân hàng.

Văn bản cảnh báo về tình trạng làm giả chứng thư bảo lãnh vừa được Ngân hàng Nhà nước gửi Tổng giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng trong ngày 19/11.

Vấn đề bắt đầu được dư luận chú ý sau sự kiện 2 chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng HSBC bị làm giả. Các chứng thư này có giá trị lên đến 80 tỷ đồng và được cơ quan công an phát hiện hồi đầu tháng 11.

Chứng thư bảo lãnh giả có thể gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Ảnh minh họa: Hoàng Hà
Chứng thư bảo lãnh giả có thể gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Ảnh minh họa: Hoàng Hà

Trong vụ việc này, nhân viên Trần Công Dũng của HSBC đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý con dấu của ngân hàng, cấu kết với 2 đối tượng ở bên ngoài, làm giả chứng thư để chào bán cho các công ty có nhu cầu về chứng thư bảo lãnh. Theo kết quả điều tra của cơ quan công an, trong thời gian tháng 7-10/2010, Dũng và đồng phạm đã “bán” được 2 chứng thư loại này cho doanh nghiệp với tổng giá trị bảo lãnh thanh toán lên tới 80 tỷ đồng, qua đó thu về không dưới 500 triệu đồng tiền hoa hồng.

Theo thông báo của Cục An ninh tài chính tiền tệ và đầu tư, Bộ Công an, việc làm giả chứng thư bảo lãnh của ngân hàng đang được các đối tượng thực hiện theo một quy trình chung. Nhân viên ngân hàng sử dụng con dấu lấy được do sơ hở quản lý để đóng dấu khống lên phôi giấy trắng có in logo của ngân hàng. Đối tượng này cũng giả mạo thêm chữ ký của lãnh đạo ngân hàng để làm chứng thư bảo lãnh giả. Tiếp đó, đối tượng ngoài ngân hàng sử dụng chứng thư bảo lãnh giả để viết tên của khách hàng.

Theo cơ quan công an và Ngân hàng Nhà nước, đây là hình thức phạm tội mới, có sự câu kết giữa đối tượng ngoài ngân hàng với nhân viên ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tiền của khách hàng.

Để phòng ngừa vụ việc tương tự có thể xảy ra, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát và ban hành đầy đủ quy trình quản lý, sử dụng và bảo quản con dấu tại đơn vị. Ngoài ra, các nhà băng cũng cần tăng cường công tác quản lý nhân sự, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về quản lý và sử dụng con dấu. Trong trường hợp phát hiện dấu hiệu lừa đảo, tổ chức tín dụng cần khẩn trương báo cáo Ngân hàng Nhà nước và cơ quan pháp luật để ngăn chặn và xử lý kịp thời.

Riêng về trường hợp của HSBC, đại diện của ngân hàng này khẳng định đã rà soát và áp dụng quy chế quản lý con dấu mới ngay sau khi phát hiện ra sự việc nói trên. HSBC cũng đang đợi kết quả điều tra của cơ quan công an trước khi tiến hành các bước xử lý tiếp theo.

Nhật Minh

(Nguồn : VnExpress)

18325a37bf525b9d88d51a3441669c72_M

SIẾT CHI PHÍ QUẢNG CÁO TRÓI TAY DOANH NGHIỆP NỘI

Siết chi phí quảng cáo trói tay doanh nghiệp nội

TT – Quy định khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị… không quá 10% từ lâu đã bị cộng đồng doanh nghiệp phản ứng.

 Việc khống chế chi phí quảng cáo, theo nhiều doanh nghiệp, đang khiến họ không thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài – Ảnh: T.T.D.

Đỉnh điểm của sự bức xúc này đã xảy ra khi ông Phan Đăng Tuất – chủ tịch HĐTV Tổng công ty Bia rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) – mới đây đã kịch liệt phê phán cho rằng quy định này đang “tiêu diệt” doanh nghiệp trong nước.

Theo một lãnh đạo Bộ Tài chính, với quy định hiện nay, doanh nghiệp mới thành lập trong ba năm đầu đã được chi cho quảng cáo, tiếp thị đến 15% và được tính vào chi phí hợp lý trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này nhằm giúp những doanh nghiệp mới có điều kiện quảng bá, tiếp thị để tiếp cận người tiêu dùng. Thừa nhận quy định hạn chế mức chi cho quảng cáo chỉ được đến 10% như hiện nay có nhiều doanh nghiệp không đồng tình vì hạn chế khả năng quảng bá để nâng doanh thu, nhưng vị lãnh đạo Bộ Tài chính cho rằng cần tính một cách tổng thể. Bởi nếu “thả”, không khống chế chi phí quảng cáo nữa thì nhiều hãng nước ngoài, công ty đa quốc gia có thể tăng rất mạnh chi phí quảng cáo. Hiện nay, một số sản phẩm như sữa, chi phí quảng cáo, tiếp thị cao đã đẩy cả vào giá thành và người tiêu dùng phải chịu.

Hiện Bộ Tài chính đang trình dự thảo sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó sẽ nâng mức chi cho quảng cáo tới 15% tổng chi phí. Việc quyết định mức nào hay bãi bỏ hẳn, theo vị lãnh đạo Bộ Tài chính, sẽ thuộc thẩm quyền Quốc hội.

Phát biểu tại hội thảo “Cạnh tranh lành mạnh bảo vệ người tiêu dùng và thương hiệu Việt”, tổ chức ngày 14-5 ở Hà Nội, ông Phan Đăng Tuất cho biết hiện tổng công ty của ông đang gặp khó vì quy định khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị… không được quá 10% “chi phí thực tế phát sinh trong kỳ” (tức chi quảng cáo không được quá 10% tổng chi phí hợp lý được trừ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp – pv). Ông Tuất cho rằng quy định này góp phần “tiêu diệt” doanh nghiệp trong nước. Lý giải điều bất cập này, ông Tuất phân tích: chi phí thực tế phát sinh trong kỳ chỉ biết được khi đã kiểm toán (thường vào ngày 31-3 năm sau, riêng tổng công ty lớn như Sabeco có thể tháng 4 mới xong). Nên trong năm doanh nghiệp không biết sẽ được chi bao nhiêu, phải rất cẩn trọng bởi nếu lạm chi thì sẽ bị xử lý.

Trao đổi với báo chí bên lề hội thảo, ông Phan Đăng Tuất cho biết thêm:

– Quản ở khâu chi phí là cách quản lý ở thời kỳ cổ điển. Đáng lý cần quản ở doanh thu thì sẽ kích thích doanh nghiệp tạo nhiều lợi nhuận. Nếu quản ngay từ phí, ta có bằng chứng sinh động: chẳng hạn phí chuyển nhượng ôtô cao người ta không chuyển nhượng, không sang tên đổi chủ. Hạ phí ở mức người ta chấp nhận được thì Nhà nước quản được, nguồn thu lại tăng. Doanh nghiệp, nhất là ngành bia, nếu cứ khống chế 10% chi phí quảng cáo như thế này là “bó tay” chúng tôi. Nếu vẫn áp dụng thế này, khoảng 10 năm nữa các hãng nước giải khát trong nước bằng cách này cách khác sẽ thui chột.

Vì vậy, tôi cho rằng các vị làm chính sách cần ngồi lại với nhau bàn lại. Quy định hạn chế ở mức 10% hiện nay và trước đây là 7% tôi đã nói cách đây tám năm là không nên. Bây giờ lại bàn nhích lên 15% vẫn chưa thỏa đáng.

* Nhưng có ý kiến cho rằng việc khống chế chi phí quảng cáo không quá 10% bởi VN mới ở giai đoạn đầu phát triển, nếu không doanh nghiệp có thể đưa chi phí lên cao để né nộp thuế?

– Quy định như thế, doanh nghiệp như chúng tôi không đủ chi phí quảng cáo, có thể phải “gian” chi phí để nâng mức được phép lên. Nếu để giữ thương hiệu cho VN, phải cho 30% may ra mới cạnh tranh được, bởi các hãng nước ngoài hiện họ chi 20% doanh thu! Ở VN được đăng ký ba hệ thống kế toán. Duy hệ thống kế toán VN quy định cái đó, còn hệ thống kế toán Anh, Mỹ không quy định, miễn có hóa đơn là được tính chi phí. Nếu quản lý nhà nước đã khống chế, phải dõi theo từng ngành. Bởi có ngành cần 30%, nhưng có ngành chỉ cần 2%. Nếu cào bằng, doanh nghiệp cần quảng cáo sẽ chết, còn doanh nghiệp không cần thì lợi.

CẦM VĂN KÌNH

(Nguồn: Báo tuổi trẻ)

Trao đổi với Tuổi Trẻ, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng cần sớm sửa đổi quy định này để tránh thiệt thòi cho doanh nghiệp trong nước.

Ông Đỗ Kim Dũng (phó chủ tịch Hiệp hội Quảng cáo VN): Hầu hết các nước đều không áp dụng

Để có thị phần, doanh nghiệp phải đầu tư cho phần mềm, trong đó phải có chi tiền để kích hoạt thương hiệu, quảng cáo chính là đầu tư về mặt chiến lược. Cần hiểu 10% với một sản phẩm đang lưu hành và quen thuộc trên thị trường là lớn nhưng với một sản phẩm mới, nhãn hiệu mới thì không thể chi 10% để có thị phần. Việc phát triển một nhãn hiệu mới hoàn toàn với một sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường và doanh số của một sản phẩm mới khó có thể so bì với một sản phẩm đã được ưa thích. Nếu khống chế thì các doanh nghiệp đi sau không có cơ hội tăng thị phần, không đủ năng lực để tăng cường sức cạnh tranh của mình, khống chế chi phí quảng cáo chả khác gì tiêu diệt doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong nước.

Trên thế giới đã phổ cập khuynh hướng không khống chế mức phí trong quảng cáo, chỉ còn VN và Trung Quốc duy trì quy định này. Con số 10, 15 hay thậm chí 30% không nên tồn tại vì bản thân nó chẳng giải quyết được gì.

Ông Trần Bảo Minh (giám đốc điều hành phụ trách chiến lược kinh doanh, marketing Công ty cổ phần Sữa quốc tế – IDP):Ngồi nhìn doanh nghiệp nước ngoài lấy thị phần

Chi phí quảng cáo không chỉ đơn giản là trên truyền hình, quảng cáo ngoài trời mà còn bao gồm cả khuyến mãi, tặng quà cùng nhiều hoạt động khác. Trong thời buổi hiện nay, khi tất cả chi phí dành cho quảng cáo đều tăng nhưng sức mua thị trường, cạnh tranh giữa các thương hiệu ngày càng cam go thì số tiền chi cho quảng cáo nếu tính ở trong mức khống chế chả đáng là bao. Vì vậy, khống chế chi phí quảng cáo là tự đè doanh nghiệp trong nước, chẳng khác gì bắt họ phải ngồi nhìn doanh nghiệp nước ngoài lấy thị phần. Có những thương hiệu nước ngoài khi mới vào thị trường VN sẵn sàng chi đến 30-40% doanh số dành cho quảng cáo với mục tiêu giành thị phần càng nhanh càng tốt. Họ có thể chịu đựng chính sách này đến 2-3 năm với nguồn tiền rót từ công ty mẹ ở nước ngoài. Trong khi đó doanh nghiệp VN lại bị bó buộc với mức khống chế, loay hoay làm quảng cáo với số tiền ít ỏi. Chưa kể 10% doanh số của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ giá trị chênh lệch nhau rất nhiều. Vô hình trung, cơ hội vươn lên của doanh nghiệp nhỏ bị mất.

Ông Huỳnh Kiến Nam (giám đốc Công ty mỹ phẩm Gia Đình): Doanh nghiệp nhỏ cũng bị hạn chế

Doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi chỉ dám sử dụng những phương thức quảng cáo truyền thống như thông qua các hội chợ, khuyến mãi tại điểm bán… hoặc đi về các tỉnh, chưa thể chi tiền để xuất hiện trên truyền hình nhưng đã cảm thấy áp lực với mức khống chế 10% trong quảng cáo. Đơn giản như thực hiện khuyến mãi tại siêu thị, các siêu thị luôn yêu cầu doanh nghiệp phải giảm sâu và hấp dẫn nhưng chúng tôi không thể làm vì như vậy sẽ không còn ngân sách để làm các chương trình khác. Trong khi đó, các tập đoàn đa quốc gia có thể khuyến mãi khủng và người tiêu dùng nhanh chóng bị thu hút.

Như Bình ghi

e2dc343852dcc66e453f7f9901577ec5_M

LUẬT PHÁ SẢN: HƠN NỬA QUY ĐỊNH GẶP VƯỚNG

Luật phá sản: Hơn nửa quy định gặp vướng

05/08/2013 – 06:20

Theo TAND Tối cao, tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản cho thấy có tới 55 điều luật trên tổng số 95 điều luật của luật này gặp vướng mắc, bất cập, gây khó khăn cho việc giải quyết của các tòa…

Gần đây, Công ty A bị một số chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa Kinh tế TAND TP.HCM. Sau khi thụ lý, tòa đã yêu cầu phía Công ty A nộp các báo cáo, tài liệu (tình hình hoạt động kinh doanh, các biện pháp đã thực hiện, bảng kê chi tiết tài sản…) theo luật định.

Lúng túng khi DN không hợp tác

Tuy nhiên, phía Công ty A không hợp tác, cố tình tìm lý do dây dưa kéo dài, không nộp báo cáo, tài liệu theo yêu cầu của tòa. Vì vậy, tòa đã gặp khó khăn trong việc ra quyết định mở thủ tục phá sản và tiến hành các bước tố tụng tiếp theo.

Vướng mắc này đã được TAND Tối cao nhìn nhận. Theo TAND Tối cao, thực tế rất nhiều doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) không cung cấp được đầy đủ các tài liệu theo yêu cầu của các tòa địa phương. Hồ sơ pháp lý về các khoản nợ hết sức sơ sài, thiếu chứng cứ để trả nợ và thu nợ vì không được chủ nợ cùng người mang nợ đối chiếu… Cạnh đó, khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản không quy định các báo cáo, tài liệu phải được DN và HTX thực hiện trong khoảng thời gian nào.

Về chuyện này, Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM Nguyễn Công Phú đề nghị Luật Phá sản cần bổ sung chế tài với chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX nếu không hợp tác với tòa. Cụ thể: Nâng mức phạt từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng khi các đối tượng trên có hành vi không xuất trình cho tòa các báo cáo, tài liệu trong hạn luật định. Mặt khác, cần bổ sung vào BLHS tội danh không chấp hành các quyết định, yêu cầu của tòa trong quá trình tiến hành các thủ tục phá sản dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính.

Phí phá sản: Còn chưa rõ

Chủ nhiệm HTX B nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ra Tòa Kinh tế nhưng không có tiền nộp tạm ứng phí phá sản. Theo điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Phá sản, HTX B sẽ được Nhà nước tạm ứng ngân sách nộp phí phá sản nếu HTX “có các tài sản khác”.

Thực tế, HTX B dù đã tạm ngưng hoạt động nhưng vẫn còn một số máy móc, thiết bị. Dù vậy, tòa vẫn lúng túng bởi quy định trên của luật chưa rõ ràng. Chẳng hạn, “tài sản khác” có giá trị tối thiểu là bao nhiêu, có cần xác định tính thanh khoản của tài sản hay không? Thực tế, nếu giá trị tài sản nhỏ hơn nhiều so với phí phá sản hay tài sản thuộc loại không thể bán thì sao? Trình tự, thủ tục thực hiện phí phá sản do ngân sách tạm ứng ra sao?

Theo Thẩm phán Nguyễn Công Phú, Điều 21 Luật Phá sản cần bổ sung rõ các điểm trên. Ngoài ra, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng theo thông báo của tòa trước và sau khi tòa thụ lý đơn, trừ trường hợp người nộp đơn là người lao động. Bổ sung thêm quy định phí phá sản sẽ được hoàn trả cho người tạm ứng không phải là DN, HTX bị phá sản từ tài sản của DN, HTX bị phá sản…

Xem lại quyền nộp đơn yêu cầu

Ông Ngô Cường (Vụ Hợp tác Quốc tế – TAND Tối cao) góp ý: Pháp luật của phần lớn các nước đều quy định các tội phạm về phá sản. Việc xác định ai là người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có ý nghĩa rất quan trọng. Ví dụ những người quản lý DN đã không nộp đơn theo đúng quy định khi công ty của họ ngừng thanh toán nợ, làm thiệt hại cho các chủ nợ thì có thể bị xem xét xử lý về hình sự. Vì thế, khi sửa đổi Luật Phá sản cần cân nhắc về vấn đề này.

Cũng theo ông Cường, cần xem xét lại về chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong một số trường hợp. Chẳng hạn, đối với DNNN thì nên giao quyền nộp đơn yêu cầu cho cơ quan có chức năng giám sát hoạt động của DN đó thay cho đại diện chủ sở hữu (Điều 16 Luật Phá sản). Đồng thời, cũng nên xem xét bỏ quy định về quyền nộp đơn của người lao động (Điều 14 Luật Phá sản) bởi lẽ quy định này có thể không phù hợp với tâm lý người lao động. Thông thường họ không muốn mất việc làm, do đó không lẽ họ lại yêu cầu “xóa bỏ” nơi họ làm việc.

Một chuyện khác, TAND Tối cao cho rằng khoản 1 Điều 13 Luật Phá sản chỉ quy định cho các chủ nợ “không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần” quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX. Như vậy là không công bằng và làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ của chủ nợ “có bảo đảm”. Trong khi đó, việc cho chủ nợ “có bảo đảm” quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ góp phần sớm phát hiện khả năng mất thanh toán của DN, HTX. Tòa có thể can thiệp sớm, giúp DN, HTX phục hồi hoạt động kinh doanh…

Ngoài ra, Luật Phá sản quy định người lao động không được tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để thực hiện. Việc cử người đại diện trong luật quy định rất phức tạp, khó thực thi và gây ra nhiều khó khăn cho người lao động, cần xem lại để không vô hiệu hóa quy định này. Cạnh đó, nên bổ sung thêm quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản của các cơ quan quản lý chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan Bảo hiểm tiền gửi, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước… Vì đây là các cơ quan giám sát hoạt động của DN hoạt động trong những lĩnh vực này nên sẽ sớm phát hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán của DN.

Còn cứng nhắc

Khoản 1 Điều 27 Luật Phá sản quy định kể từ thời điểm tòa thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản, tất cả bản án mà theo đó DN mắc nợ có nghĩa vụ thi hành đều bị tạm đình chỉ. Quy định này cơ bản là đúng nhưng còn cứng nhắc, không hợp lý trong một số trường hợp.

Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

Không mở thủ tục phá sản

Nên quy định cụ thể các trường hợp tòa ra quyết định không mở thủ tục phá sản, trong đó bao gồm các trường hợp sau:

Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không nộp tiền tạm ứng phí phá sản.

Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (không phải là DN phá sản) rút đơn yêu cầu.

DN không chấp hành đúng pháp luật kế toán (không lập sổ sách, chứng từ kế toán đầy đủ theo quy định) nên không có căn cứ xác định DN mất khả năng thanh toán nợ là do kinh doanh thua lỗ hay do cố ý làm thất thoát tài sản.

Vắng mặt đại diện hợp pháp của DN mà kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán của DN, HTX không còn làm việc tại DN, HTX hoặc còn đang làm việc nhưng từ chối tham gia tố tụng.

Thẩm phán NGUYỄN CÔNG PHÚ,
Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM

HOÀNG YẾN

(Nguồn : Báo pháp luật Tp.HCM)