TRIỂN KHAI LUẬT CON NUÔI CÒN LÚNG TÚNG

Cùng với việc thông qua Luật Nuôi con nuôi tại Kỳ họp thứ 7, QH Khóa XII; tháng 7.2011 Chủ tịch Nước đã ký Quyết định phê chuẩn Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Như vậy đã hoàn thiện căn bản về thể chế đối với lĩnh vực này, tuy nhiên việc thực hiện vẫn lúng túng.

Cùng với việc thông qua Luật Nuôi con nuôi tại Kỳ họp thứ 7, QH Khóa XII; tháng 7.2011 Chủ tịch Nước đã ký Quyết định phê chuẩn Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Như vậy đã hoàn thiện căn bản về thể chế đối với lĩnh vực này, tuy nhiên việc thực hiện vẫn lúng túng.

Khoảng 50% tỉnh, thành có kế hoạch triển khai Luật

Từ đầu năm đến nay, Bộ Tư pháp đã giải quyết 16 hồ sơ nhận 19 trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài; trong đó chủ yếu là trẻ em khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo (7 trường hợp); trẻ trên 5 tuổi và trường hợp nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi.

Điều đáng ghi nhận là Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con đã quy định tương đối cơ bản, đầy đủ bảo đảm thuận lợi cho việc áp dụng và thực hiện được ngay không cần ban hành nhiều văn bản hướng dẫn khác. Đối với lĩnh vực lệ phí, chi phí thì lần đầu tiên các quy định hiện hành đã tạo cơ sở pháp lý công khai, minh bạch cho việc thu, nộp, quản lý và sử dụng các khoản lệ phí đăng ký nuôi con nuôi; chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài cũng như lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Đặc biệt, về các chế độ sử dụng các khoản lệ phí, chi phí nêu trên, NĐ 19 cũng đã quy định rất rõ các hoạt động đặc thù không phải chờ Thông tư hướng dẫn. Cụ thể, NĐ 19 đã quy định rõ mục đích sử dụng các khoản phí, chi phí cho từng công việc và tương ứng với đó là cơ quan nào được sử dụng các khoản lệ phí, chi phí. Ví dụ, Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp được sử dụng 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài, 5% mức chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài; Sở Tư pháp được sử dụng 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài…; Cơ sở nuôi dưỡng trẻ em được sự dụng 85% mức chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài…

Thể chế pháp lý tương đối hoàn thiện, nhưng tính đến 15.8. 2011, Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp mới chỉ nhận được Kế hoạch triển khai thực hiện Luật của 37 Sở Tư pháp, còn 26 tỉnh thành khác chưa có kế hoạch này. Mặc dù, theo kế hoạch, sau các lớp tập huấn về việc thực hiện Luật Nuôi con nuôi và NĐ19, Sở Tư pháp sẽ tiến hành tập huấn thực hiện Luật cho cán bộ tư pháp và các cơ quan liên quan ở cấp huyện, UBND cấp xã và cán bộ tư pháp hộ tịch địa phương.

Chờ hướng dẫn… mở tài khoản

Đối với những địa phương đã triển khai kế hoạch thì gặp một khó khăn khác đó là việc lập dự toán để sử dụng khoản chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài. Theo quy định của Điều 12, Khoản 2 Luật Nuôi con nuôi và Điều 49 NĐ19 thì cơ quan thu chuyển 95% mức chi phí cho ngân sách cấp tỉnh để phân bổ sử dụng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại địa phương, trong đó: 70% mức chi phí được sử dụng vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em và cải thiện các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhu cầu, lợi ích của trẻ em; 15% mức chi phí được bổ sung quỹ lương và nâng cao năng lực cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng…

Tuy nhiên, nhiều địa phương không thống nhất trong việc điều chuyển ngân sách, nên chưa cung cấp cho Cục Con nuôi tên chủ tài khoản tiếp nhận khoản chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài. Thực chất của vấn đề này chính là các địa phương chưa tìm được tiếng nói chung trong việc xác định ai là chủ tài khoản, mặc dù đối tượng hưởng lợi từ các khoản chi trên là trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng. Thực tế, rất nhiều cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đang gặp khó khăn trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Thậm chí có cơ sở nuôi dưỡng còn cho biết, mặc dù họ được nhận khoản chi phí này, nhưng lại bị trừ vào phần ngân sách do tỉnh cấp hàng năm. Tình trạng trên dẫn đến hậu quả, nhiều cơ sở nuôi dưỡng trẻ em không chủ động lập hồ sơ và cũng không thông báo cho Sở Tư pháp danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế trong nước theo quy định của pháp luật, thậm chí đã có một số trẻ em bị chết do cơ sở nuôi dưỡng không đủ kinh phí để chăm sóc sức khỏe cho các cháu. Hiện tại mới chỉ có Quảng Bình và Lạng Sơn gửi báo cáo cho Cục Con nuôi về phương án giải quyết vấn đề này. Nhiều tỉnh đang chờ hướng dẫn của bộ, nhất là về việc mở tài khoản tại sở/ban/ngành nào của tỉnh để nhận khoản chi phí do Cục Con nuôi chuyển về, cũng như cách thức sử dụng khoản chi phí đó, kể các chế độ thanh, quyết toán.

Bên cạnh đó, hiện nhiều Sở Tư pháp còn lúng túng trong việc lập dự toán chi, nhất là việc xác định mức chi cụ thể từ lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài cho các hoạt động chuyên môn đặc thù theo quy định tại Khoản 3 Điều 44 của NĐ 19. Bởi từ trước tới nay chưa có tiền lệ về các khoản chi này, chẳng hạn như: mức chi cho việc kiểm tra, thẩm định hồ sơ của cha mẹ nuôi; lấy ý kiến chuyên gia tâm lý, gia đình, y tế, xã hội để đánh giá toàn diện về hồ sơ cha mẹ; mức chi cho việc tập hợp, theo dõi, tổng hợp và đánh giá báo cáo về tình trạng phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài (theo quy định của Công ước La hay)… Ngay cả Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp cũng gặp lúng túng trong việc lập dự toán để sử dụng khoản tiền được trích lại từ chi phí giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài.

Thực tế, đây là khoản tiền do cha, mẹ nuôi nước ngoài đóng góp. Do đó chỉ có một yêu cầu được đặt ra sử dụng đúng mục đích và hiệu quả khoản chi phí này. Cục Con nuôi có trách nhiệm báo cáo công khai, minh bạch cho Ban thường trực Hội nghị Lahay – cơ quan theo dõi thi hành Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi – và các Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế của các nước, cũng như công khai và minh bạch với các tổ chức con nuôi nước ngoài và cha mẹ nuôi nước ngoài về khoản thu này khi có yêu cầu. Vậy thì có phức tạp đến mức không tìm được một tổ chức đứng tên tài khoản, hay do lúng túng trong mức chi? Mọi việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều, nếu đứng ở góc độ quyền lợi của các trẻ ở các cơ sở nuôi dưỡng.

Phùng Hương

Nguồn: nguoidaibieu.com.vn

VIỆT NAM ĐÃ PHÊ CHUẨN CÔNG ƯỚC LAHAY SỐ 33 NGÀY 29/5/1993 VỀ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI QUỐC TẾ

Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã có Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước Lahay số 33 ngày 29/5/1993 (Công ước Lahay số 33) về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam ký, phê chuẩn và thực hiện Công ước Lahay số 33 trong thời điểm hiện nay có nhiều điểm thuận lợi.

Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã có Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN về việc phê chuẩn Công ước Lahay số 33 ngày 29/5/1993 (Công ước Lahay số 33) về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam ký, phê chuẩn và thực hiện Công ước Lahay số 33 trong thời điểm hiện nay có nhiều điểm thuận lợi.

Thứ nhất, pháp luật trong nước về nuôi con nuôi đã được hoàn thiện một cách toàn diện và đồng bộ, thể hiện qua việc Quốc hội thông qua Luật Nuôi con nuôi và Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Về cơ bản, các quy định của Công ước Lahay số 33 đã được nội luật hóa ở mức tối đa trong hai văn bản này. Thứ hai, Việt Nam đã trải qua hơn mười năm thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các nước Pháp, Italia, Đan Mạch, Thụy Điển, Ailen, Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ và Tây Ban Nha. Cho đến nay, tất cả những nước này đều đã trở thành thành viên của Công ước Lahay số 33. Do vậy, việc thực hiện các Hiệp định hợp tác song phương đã đem lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong qúa trình hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi theo cơ chế của Công ước Lahay.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Ngoại giao tiến hành thủ tục nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn Công ước tới Bộ Ngoại giao Vương quốc Hà Lan (là quốc gia lưu chiểu Công ước). Theo quy định tại Điều 46 của Công ước Lahay số 33 thì Công ước sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 03 tháng kể từ khi Việt Nam nộp văn kiện lưu chiểu về việc phê chuẩn Công ước.

Để thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của một nước thành viên tham gia Công ước, đồng thời nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết việc nuôi con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp đang xây dựng Đề án triển khai thực hiện Công ước Lahay số 33 để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc xây dựng Đề án sẽ giúp chúng ta thực hiện Công ước một cách khoa học và có hiệu quả thông qua việc xác định đầy đủ các nguyên tắc của quá trình thực hiện, những hoạt động cần được tiến hành, lộ trình thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong quá trình thực hiện Công ước Lahay số 33.

Đào Hà, Cục Con nuôi

theo  moj.gov.vn

THỦ TỤC NHẬN NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

(Theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ và
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP)
I. Hồ sơ của người xin nhận con nuôi gồm các giấy tờ sau:

(Theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ và
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP)
I. Hồ sơ của người xin nhận con nuôi gồm các giấy tờ sau:

1) Đơn xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo mẫu quy định;
2) Bản sao có công chứng hoặc chứng thực hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế như giấy thông hành hoặc thẻ cư trú;
3) Giấy phép còn giá trị do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp, cho phép người đó nhận con nuôi. Nếu nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú không cấp loại giấy phép này thì thay thế bằng giấy tờ có giá trị tương ứng hoặc giấy xác nhận có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định nước đó;
4) Bản điều tra về tâm lý, gia đình, xã hội của người xin nhận con nuôi do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp;
5) Giấy xác nhận do tổ chức y tế có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú hoặc tổ chức y tế của Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó có đủ sức khỏe, không mắc bệnh tâm thần hoặc không mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, không mắc bệnh truyền nhiễm;
6) Giấy tờ xác nhận về tình hình thu nhập của người xin nhận con nuôi, chứng minh người đó bảo đảm việc nuôi con nuôi;
7) Phiếu lý lịch tư pháp của người xin nhận con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú cấp chưa quá 12 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ;
8) Bản sao giấy chứng nhận kết hôn đối với người xin nhận con nuôi, trong trường hợp người xin nhận con nuôi là vợ chồng đang trong thời kỳ hôn nhân;
9) Người xin nhận con nuôi là người nước ngoài thường trú ở nước ngoài mà nước đó chưa ký hiệp định con nuôi với Việt Nam thì phải có giấy tờ phù hợp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước nơi người đó thường trú cấp để chứng minh nếu thuộc 1 trong 3 trường hợp hợp sau đây:
a) Có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06 thang trở lên;
b) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;
c) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con nuôi hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm con nuôi.
(Quy định tại điều 41 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP).
Hồ sơ được lập thành 02 bộ và nộp cho Cơ quan con nuôi quốc tế (Bộ Tư pháp).

II. Hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi gồm các giấy tờ sau đây:

1) Bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy khai sinh của trẻ em;
2) Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi có chữ ký của những người có quyền sau đây:
– Người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại Việt Nam tự nguyện đồng ý cho trẻ em đang sống ở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi. Trong trường hợp trẻ em còn cha đẻ, mẹ đẻ thì phải có giấy tự nguyện đồng ý của cha đẻ, mẹ đẻ cho con làm con nuôi, trừ trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có cha, mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi đưa trẻ em này vào cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, cha, mẹ đẻ của trẻ em này đã có giấy tự nguyện đồng ý cho con làm con nuôi;
– Cha đẻ, mẹ đẻ tự nguyện đồng ý cho con đang sống tại gia đình làm con nuôi. Nếu cha hoặc mẹ đẻ của trẻ em đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của người kia. Trong trường hợp cả cha và mẹ đẻ của trẻ em đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tự nguyện đồng ý của người giám hộ của trẻ em đó;
– Đối với trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải có giấy đồng ý làm con nuôi của trẻ em đó (có thể ghi chung vào giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi).
3) Giấy xác nhận của Tổ chức y tế từ cấp huyện trở lên, xác nhận về tình trạng sức khỏe của trẻ em;
4) Hai ảnh màu của trẻ em, chụp toàn thân cỡ 10 x 15 cm hoặc 9 x 12 cm.
(Quy định tại Điều 44 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP).

Hồ sơ lập thành 04 bộ và nộp cho Sở Tư pháp Thành phố (số 141–143 Pasteur, quận 3, TP. Hồ Chí Minh).

Ghi chú:
1) Đối với trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, ngoài các giấy tờ nêu trên, hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi còn phải có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng, biên bản bàn giao trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng và giấy tờ tương ứng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Đối với trẻ em bị bỏ rơi, phải có bản tường trình sự việc của người phát hiện trẻ em bị bỏ rơi; biên bản về việc trẻ em bị bỏ rơi (có xác nhận của cơ quan công an hoặc chính quyền địa phương); giấy tờ chứng minh đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng (từ cấp tỉnh trở lên) về việc trẻ em bị bỏ rơi sau 30 ngày mà không có thân nhân đến nhận;
– Đối với trẻ em mồ côi, phải có bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy chứng tử của cha, mẹ đẻ của trẻ em đó;
– Đối với trẻ em có cha. mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự, phải có bản sao được công chứng quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố cha, mẹ đẻ của trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự.
2) Đối với trẻ em đang sống tại gia đình, ngoài các giấy tờ quy định nêu trên, còn phải có bản sao được công chứng hoặc chứng thực sổ hộ khẩu hoặc giấy đăng ký tạm trú có thời hạn của cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ đang nuôi dưỡng trẻ em.
3) Đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật, nạn nhân của chất độc hóa học, nhiễm HIV/AIDS, mắc bệnh hiểm nghèo khác thì phải có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền cấp theo quy định của Bộ Y tế và các quy định pháp luật khác có liên quan; đối với trẻ em mất năng lực hành vi dân sự thì phải có bản sao được công chứng quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự.
3) Các văn kiện bằng tiếng nước ngoài phải nộp 01 bản chính, kèm bản dịch ra tiếng Việt có xác nhận của Phòng Công chứng Nhà nước.
– Văn kiện được cấp từ nước ngoài do cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước đó hợp pháp hóa.
– Văn kiện được cấp từ các cơ quan Đại diện ngoại giao của nước ngoài đang trú đóng tại Việt Nam thì do Bộ Ngoại giao Việt Nam hoặc cơ quan Ngoại vụ được Bộ Ngoại giao Việt Nam ủy nhiệm hợp pháp hóa.
– Trường hợp văn kiện được cấp từ nước ngoài đã mang về Việt Nam nhưng chưa được hợp pháp hóa, thì văn kiện này phải thông qua cơ quan Ngoại giao của nước họ đang trú đóng tại Việt Nam thị thực. Sau đó Bộ Ngoại giao Biệt Nam ủy nhiệm hợp pháp hóa.

THỦ TỤC NHẬN CON NUÔI Ở VIỆT NAM RA SAO?

Sự kiện một diễn viên nước ngoài nhận xin con nuôi tại VN khiến nhiều người thắc mắc qui trình, thủ tục nhận nuôi con nuôi hiện nay ra sao. Bà Trịnh Thị Bích trưởng phòng hộ tịch, quốc tịch và lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp TP.HCM – cho biết:

Công dân của nước mà VN đã có ký điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có thể được xin trẻ em VN dưới 15 tuổi (hoặc 15-16 tuổi nếu trẻ tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự) để làm con nuôi.

Sự kiện một diễn viên nước ngoài nhận xin con nuôi tại VN khiến nhiều người thắc mắc qui trình, thủ tục nhận nuôi con nuôi hiện nay ra sao. Bà Trịnh Thị Bích trưởng phòng hộ tịch, quốc tịch và lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp TP.HCM – cho biết:

Công dân của nước mà VN đã có ký điều ước quốc tế về nuôi con nuôi có thể được xin trẻ em VN dưới 15 tuổi (hoặc 15-16 tuổi nếu trẻ tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự) để làm con nuôi.

Đối với công dân ở quốc gia mà VN chưa ký điều ước quốc tế về nuôi con nuôi thì chỉ được nhận nuôi con nuôi trong các trường hợp sau: người nước ngoài có thời gian học tập, làm việc tại VN trên sáu tháng; có vợ chồng hoặc cha mẹ là người VN hoặc có gốc VN; có quan hệ họ hàng với trẻ được nhận là con nuôi; nhận nuôi trẻ bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, nhiễm HIV, nạn nhân của chất độc hóa học, nhiễm bệnh hiểm nghèo tại các cơ sở nuôi dưỡng hoặc trẻ mồ côi đang sống tại các gia đình.

Người nước ngoài muốn nhận con nuôi tại VN phải có đơn (theo mẫu); giấy phép của cơ quan có thẩm quyền của nước đó cho nhận nuôi con nuôi hoặc giấy xác nhận đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi; bản điều tra về tâm lý xã hội của người này do cơ quan có thẩm quyền cấp; giấy xác nhận của cơ quan y tế về tình trạng sức khỏe, tâm thần; giấy tờ xác nhận thu nhập; phiếu lý lịch tư pháp; bản sao chứng nhận kết hôn và bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác…

Hồ sơ nộp cho Cục Con nuôi quốc tế thuộc Bộ Tư pháp xem xét giải quyết. Cục Con nuôi quốc tế sẽ gửi công văn cho sở tư pháp tỉnh, thành nơi trẻ được nhận nuôi cư trú để giới thiệu, hướng dẫn lập hồ sơ trẻ và tiến hành thẩm tra xác minh. Sau khi thẩm tra xác minh, sở tư pháp sẽ chuyển hồ sơ trả cho Cục Con nuôi quốc tế để xem xét quyết định việc cho nhận con nuôi hay không. Tùy trường hợp xác minh và việc xin con nuôi đích danh hoặc không đích danh mà thời gian giải quyết có thể từ 3-4 tháng. Lệ phí nhận nuôi con nuôi của người nước ngoài là 1.000.000 đồng/hồ sơ.

Còn trường hợp nhận nuôi con nuôi trong nước có trình tự thủ tục ra sao, thưa bà?

Theo nghị định 158/2005/NĐ-CP, người nhận con nuôi nộp hồ sơ tại UBND cấp xã nơi cư trú. Hồ sơ phải có giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi do chính cha mẹ đẻ và người nhận con nuôi lập, kể cả trường hợp cha mẹ đã ly hôn. Đối với trẻ đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì người đại diện cơ sở ký giấy thỏa thuận. Trẻ được nhận làm con nuôi phải dưới 15 tuổi, nếu trẻ từ đủ 9-15 tuổi thì trong giấy thỏa thuận phải có ý kiến của trẻ. Ngoài ra, trong hồ sơ còn phải có bản sao giấy khai sinh người được nhận làm con nuôi, biên bản xác nhận tình trạng bị bỏ rơi (nếu người được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi).

Trước khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cán bộ hộ tịch phải kiểm tra, xác minh kỹ tính tự nguyện của việc cho và nhận con nuôi, mục đích nhận con nuôi. Thời hạn giải quyết hồ sơ là năm ngày, nếu cần xác minh thêm thì được kéo dài thêm không quá năm ngày.

Theo Chi Mai (Tuổi Trẻ)

VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC NHẬN NUÔI CON NUÔI

Thứ nhất, về vấn đề thỏa thuận cho và nhận con nuôi: Tại Điều 26 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định việc cho và nhận con nuôi phải do chính cha, mẹ đẻ và người nhận con nuôi lập, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đẻ của trẻ đã ly hôn.

Thứ nhất, về vấn đề thỏa thuận cho và nhận con nuôi: Tại Điều 26 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định việc cho và nhận con nuôi phải do chính cha, mẹ đẻ và người nhận con nuôi lập, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đẻ của trẻ đã ly hôn.Tuy nhiên quy định này hiện nay đã được thay thế bằng Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì việc lấy ý kiến của những người liên quan về sự đồng ý cho làm con nuôi được thực hiện bởi cán bộ Tư pháp – hộ tịch theo biểu mẫu TP/CN-2011/CN.07.a tại Thông tư 12/2011/TT-BTP ngày 27/6/2011.

 

Như vậy, việc lấy ý kiến của những người có liên quan về sự đồng ý cho trẻ làm con nuôi là trách nhiệm của UBND cấp xã, cụ thể là cán bộ Tư pháp – hộ tịch nơi bạn nộp hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi.

Thứ hai, về trường hợp quyền của bố mẹ trẻ đã ly hôn, mẹ đẻ của trẻ cho rằng, chị không thể liên lạc được với người cha đẻ của trẻ; đồng thời quyền nuôi con thuộc về chị nên chị có quyền cho con mình làm con nuôi mà không cần có sự đồng ý của người bố đẻ.

Theo quy định tại Điều 92, Điều 94 của Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với con của mình cho dù đứa trẻ được giao cho người cha hoặc người mẹ chăm sóc. Như vậy, trong trường mà bạn đề cập đến, việc người mẹ cho rằng quyền nuôi con thuộc về chị khi ly hôn nên chị có quyền cho con mình làm con nuôi mà không cần sự đồng ý của người bố đẻ là trái với quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

Mặt khác, theo quy định tại Luật Nuôi con nuôi 2010 và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Nuôi con nuôi thì nếu trẻ được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ thì cán bộ Tư pháp – hộ tịch được phân công phải tiến hành lấy ý kiến của cả cha mẹ đẻ về việc cho trẻ làm con nuôi.

Về nguyên tắc, nếu bố, mẹ trẻ không thể hiện sự đồng ý cho con làm con nuôi thì việc đăng ký con nuôi không thể thực hiện được.

Trong trường hợp người mẹ đẻ của trẻ không liên hệ được với người bố đẻ của trẻ thì người mẹ cần gửi đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác minh nơi cư trú của bố đẻ của con mình để trên cơ sở đó tiến hành thủ tục láy ý kiến đồng ý của người bố về việc cho trẻ em làm con nuôi.

Trường hợp không thể tìm được nơi cú trú của bố đẻ của trẻ em, người mẹ đẻ phải đề nghị Tòa án nhân dân làm thủ tục tuyên bố bố đẻ của trẻ em mất tích, hoặc đã chết. Sau khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền tuyên bố đẻ của trẻ em mất tích hoặc đã chết, cán bộ Tư pháp – hộ tich được phân công có thể làm thủ tục cho trẻ em làm con nuôi mà không cần phải xin ý kiến đồng ý của bố đẻ của trẻ em.

Thứ ba, về vấn đề đổi họ tên cho người được nhận nuôi:

Theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 27, Bộ luật dân sự 2005: cha, mẹ nuôi nhận con nuôi và việc nhận con nuôi đó được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật về con nuôi quy định thì có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ tên cho con nuôi.

Việc thay đổi họ, tên của con đẻ sang họ, tên của cha mẹ nuôi  sẽ được xem xét, giải quyết theo các quy định của khoản 3 Điều 10 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP và các quy định pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch có liên quan.

Thứ tư, về điều kiện nhận con nuôi:

Tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010 có quy định một trong số các điều kiện được đặt ra là người nhận con nuôi “phải có điều kiện kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”.

Như vậy, nếu cán bộ Tư pháp – hộ tịch xác minh được người nhận nuôi trẻ không có việc làm ổn định, không đáp ứng được điều kiện để nuôi con nuôi thì cán bộ Tư pháp – hộ tịch sẽ từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi và thông báo cho người nhận con nuôi được biết theo quy định của pháp luật.

CON NUÔI THỰC TẾ ĐƯỢC ĐĂNG KÝ ĐẾN 2015

02/07/2013 – 04:05

SỞ TƯ PHÁP TP.HCM GIAO LƯU TRỰC TUYẾN

Con nuôi thực tế được đăng ký đến 2015 Nhiều bạn đọc quan tâm, đặt câu hỏi về việc nhận con nuôi, ghi chú sổ đăng ký khai sinh, làm phiếu lý lịch tư pháp…

Ngày 1-7, tại báo Pháp Luật TP.HCM, Sở Tư pháp TP.HCM đã giao lưu trực tuyến với người dân về các thủ tục hành chính hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp.

Bà Ung Thị Xuân Hương (Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM) cho biết buổi giao lưu nhằm thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính, giúp người dân hiểu rõ hơn các thủ tục hành chính, các văn bản pháp luật, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.

Bạn đọc có thể xem chi tiết nội dung giao lưu tại địa chỉ www.phapluattp.vn.

Không muốn ghi chú “Trẻ bị bỏ rơi”

Thực tế tồn tại tâm lý không muốn người con nuôi là con rơi tủi thân về nguồn gốc của mình, nhiều cha mẹ xóa dấu tích về quan hệ nuôi giữa cha mẹ-con. Bạn đọc T. (Bình Chánh, TP.HCM) lo lắng: “Vợ chồng tôi mới nhận một trẻ bỏ rơi làm con nuôi. Khi đi khai sinh cho cháu, tôi thấy trong sổ đăng ký khai sinh của cán bộ hộ tịch có ghi chú là “Trẻ bị bỏ rơi”. Phần ghi về cha mẹ được ghi chú là “Cha, mẹ nuôi”. Vợ chồng tôi rất thương cháu bé, xem cháu bé như con mình đẻ ra, không muốn sau này lớn lên cháu tìm hiểu và biết mình bị bỏ rơi. Chúng tôi nói với cán bộ hộ tịch đừng ghi như vậy nhưng cán bộ giải thích đó là quy định bắt buộc. Xin cho hỏi chúng tôi có được quyền yêu cầu không ghi chú gì trong sổ đăng ký khai sinh không?”.

Lãnh đạo Sở Tư pháp TP.HCM và các phòng nghiệp vụ trả lời câu hỏi của bạn đọc. Ảnh: TM

Ông Nguyễn Văn Vũ (Trưởng phòng Hộ tịch, quốc tịch – Sở Tư pháp TP.HCM) cho biết cán bộ hộ tịch ghi chú như vậy là đúng. Khoản 3, 4 Điều 16 Nghị định 158 (năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch của Chính phủ) quy định khi đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “Trẻ bị bỏ rơi”. Tuy nhiên, ông Vũ khuyên người dân không nên lo lắng vì mọi thông tin về nhân thân đứa trẻ được giữ bí mật.

Chưa đăng ký con nuôi thì sao?

Bạn đọc có tên HA hỏi rằng bà nhận một người làm con nuôi từ lúc mới lọt lòng, đến nay con 20 tuổi. Nay vì hoàn cảnh riêng, bà muốn giao con cho người em gái nhận làm con nuôi nhưng không rõ thủ tục ra sao.

Ông Nguyễn Văn Vũ khẳng định trường hợp này không thể làm thủ tục giao nhận con nuôi. Theo Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi phải dưới 18 tuổi. Con của bà HA đã quá độ tuổi quy định. Ngoài ra, hiện tại chưa có quy định về việc nhận con nuôi của người khác làm con nuôi của mình.

Cũng liên quan đến con nuôi, bạn đọc Hạ Vy hỏi rằng bà nuôi con nuôi mấy chục năm về trước nhưng không làm giấy tờ gì để chứng minh quan hệ mẹ-con, nay muốn làm giấy tờ nhìn nhận quan hệ mẹ con nuôi cho rõ ràng thì phải làm sao.

Ông Vũ giải thích Luật Nuôi con nuôi quy định việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày luật này có hiệu lực (ngày 1-1-2011) mà chưa đăng ký thì được đăng ký trong thời hạn năm năm, kể từ ngày luật này có hiệu lực. Để được chấp nhận, các bên phải đáp ứng các điều kiện như hiện tại quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau… Nếu đáp ứng được các điều kiện, bà nên liên hệ UBND xã nơi thường trú để đăng ký chậm nhất là ngày 31-12-2015.

Chỉ cấp phiếu lý lịch tư pháp bằng tiếng Việt

Vấn đề thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp cũng được nhiều người dân đặt câu hỏi. Bạn đọc PA nêu băn khoăn không biết có thể xin cấp phiếu lý lịch tư pháp bằng tiếng Anh và Hoa được không vì phải nộp cho công ty nước ngoài.

Ông Hồng Văn Hải (Trưởng phòng Lý lịch tư pháp – Sở Tư pháp TP.HCM) cho biết tất cả phiếu lý lịch tư pháp cấp cho công dân đều ghi tiếng Việt. Công dân có nhu cầu sử dụng phiếu bằng tiếng của nước nào thì phải thông qua dịch thuật để có bản dịch. Để tạo điều kiện cho người dân đỡ đi lại nhiều lần, tại sở có một quầy tiếp nhận dịch thuật và chuyển phát bản dịch đến tận nhà.

Cùng mối quan tâm, bà Nguyễn Thị L. thắc mắc cha mẹ có thể đi làm thủ tục xin cấp phiếu lý lịch tư pháp để bổ sung hồ sơ du học cho con (đang ở bên Pháp) được không, lệ phí là bao nhiêu?

Dẫn quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Lý lịch tư pháp, ông Hải giải thích cá nhân có thể ủy quyền cho người khác làm thủ tục yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp. Trường hợp người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp phiếu lý lịch tư pháp thì không cần văn bản ủy quyền. Lệ phí cấp phiếu lý lịch tư pháp đối với học sinh, sinh viên được giảm hơn bình thường, tức 100.000 đồng/lần/người. Để xác định người được cấp phiếu lý lịch tư pháp thuộc đối tượng là học sinh, sinh viên, phải xuất trình thẻ học sinh, thẻ sinh viên hoặc giấy xác nhận của cơ sở giáo dục, đào tạo (nơi người con đang học tập).

Tháng 7-2013, giao lưu về thừa phát lại

Bà Ung Thị Xuân Hương (Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM) cho biết thời gian tới, sở sẽ tiếp tục giao lưu trực tuyến về các nội dung khác như giới thiệu những văn bản pháp luật mới có liên quan trực tiếp với người dân, các nội dung liên quan đến Luật Xử lý vi phạm hành chính vừa có hiệu lực, các nghị định xử phạt vi phạm hành chính… Cụ thể trong tháng 7 này, sở dự định sẽ tổ chức giao lưu với bạn đọc về những vấn đề liên quan đến chế định thừa phát lại mà TP đang tiếp tục thí điểm.

THANH MẬN lược ghi

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)