220c08548cac211cc7db219bb52f46cf_M

LƯỚT SÓNG BẤT ĐỘNG SẢN GẶP “HẠN”

Lướt sóng bất động sản gặp "Hạn"

Mới có hiệu lực gần hai tuần, song Nghị định 71 khiến nhiều nhà đầu tư địa ốc nhấp nhổm không yên. Tuy nhiên, một số người lạc quan cho rằng quy định này sẽ tăng cường cơ hội cho những nhà đầu tư thực sự.

Mới có hiệu lực gần hai tuần, song Nghị định 71 khiến nhiều nhà đầu tư địa ốc nhấp nhổm không yên. Tuy nhiên, một số người lạc quan cho rằng quy định này sẽ tăng cường cơ hội cho những nhà đầu tư thực sự.

Tháng cô hồn, giao dịch thị trường nhà đất èo uột. Thị trường càng trầm lắng khi nghị định 71 có hiệu lực, quy định các bên chỉ được ký hợp đồng ủy quyền công chứng quyền sử dụng, bán, cho thuê khi nhà đã xây xong. Theo ông Lê Xuân Trường, Giám đốc Công ty cổ phần Bất động sản B.D.S, các dự án bất động sản mới giao dịch thông qua công chứng ủy quyền chiếm khoảng trên 70%.

Thực tế, mỗi dự án kể từ khi bắt đầu bán ra thị trường bằng các hình thức góp vốn, hợp tác đầu tư… cho đến lúc bàn giao nhà cho khách hàng phải mất vài năm. “Trong khi đó nhu cầu mua đi bán lại chiếm tỷ lệ rất cao trong khoảng thời gian này. Do đó, trước mắt quy định mới này đã siết chặt cửa ‘lướt sóng’ đối với nhà đầu tư”, ông Trường nói.

Phó giám đốc của một công ty bất động sản tâm sự, ông vẫn đang ôm một số căn hộ chung cư ở khu vực phía Tây thành phố. Tiền đã đóng xong đợt một, chưa kịp “lướt” nhanh thì gặp lúc thị trường địa ốc chững lại. Đang thắc thỏm chờ thị trường lên thì gặp ngay quy định không được ủy quyền công chứng khi nhà chưa xây xong. “Dốc vào đó đã gần 2 tỷ, giờ tôi chỉ còn biết ‘bó gối’ ngồi để huy động bạn bè theo trọn dự án mà thôi”, vị phó giám đốc ngán ngẩm.

Ông Phạm Thanh Hưng, Phó tổng giám đốc Cen Group cho hay, những người mua dự án bất động sản trong thời kỳ “lúa còn non” chủ yếu là những người kinh doanh địa ốc, mua để đầu tư. Còn lại, những người mua để ở lại thích những căn hộ đã hoàn thiện, giấy tờ đầy đủ. Do đó, không cho phép ủy quyền công chứng khi nhà chưa xây xong có thể làm thị trường chững lại.

Thêm vào đó, theo ông Hưng, việc thắt chặt chuyển nhượng trong giai đoạn góp vốn cũng được thể hiện thông qua quy định chỉ được phép bán 20% sản phẩm không qua sàn. Để được quyền bán, chủ đầu tư phải có văn bản thông báo về số lượng, địa chỉ nhà, loại nhà kèm theo danh sách tên, địa chỉ các đối tượng được phân chia lên Sở Xây dựng. Theo đó, Sở xây dựng sẽ nắm tất cả các thông tin của người mua từ khi dự án bắt đầu triển khai cho đến khi công trình hoàn thành.

“Những khách hàng có nhu cầu mua buộc phải theo dự án đến khi bàn giao nhà mới được chuyển nhượng. Quy định này đã chặn hết các cửa lướt sóng của các nhà đầu tư thứ cấp cho dù là bên bán hay bên mua”, ông Hưng nói.

Tuy nhiên, một số chuyên gia lạc quan hơn lại cho rằng, Nghị định 71 sẽ làm thị trường minh bạch hơn. Ông Đặng Văn Quang, Trưởng phòng Tư vấn chiến lược của Công ty John Lang LaSalle Việt Nam đánh giá, những giao dịch qua ủy quyền công chứng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Người mua đôi khi gặp phải những sản phẩm “hứa” không có thực. Thêm vào đó, người được ủy quyền không có quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như giấy phép xây dựng mang tên mình vì không phải là người mua bán trực tiếp lô đất.

Ông Quang nhận định, nghị định sẽ làm cuộc chơi trong làng bất động sản rõ ràng và rành mạch hơn. Nhà đầu tư không đủ năng lực tài chính sẽ buộc phải buông dự án nhường cơ hội cho những người có năng lực thực sự. “Nghị định chủ yếu tác động vào những dự án đang trong quá trình hình thành. Những giao dịch mang tính chất lướt sóng sẽ bị hạn chế”, ông Quang nhận định.

Từ trước đến nay, quá trình mua bán nhà đất vẫn diễn ra vòng vèo qua nhiều nhà đầu tư thứ cấp khiến giá liên tục bị đẩy lên cao. Giao dịch hầu hết đã chững lại song giá vẫn cao chót vót. Tiêu biểu như Geleximco giá đang ở mức 37,1-44,6 triệu đồng mỗi m2, Văn Phú 41 triệu đồng…

Ông Nguyễn Đỗ Việt, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần sông Đà Thăng Long nhận định, giá bất động sản sẽ có khả năng giảm xuống. Cùng với nguồn cung hiện nay khá nhiều, các nhà đầu tư có năng lực bám sát thị trường, loại bỏ những nhà đầu tư lướt sóng sẽ bớt cầu chênh giá. Thêm vào đó, quy định cho phép chủ đầu tư không hạn chế tầng cao đối với nhà ở xã hội sẽ tạo thêm nguồn cung làm giá bất động sản dần trở về giá trị thực.

Hoàng Lan

e3017719190ff1e83db12ee09e7beada_M

BẪY TÀI CHÍNH KHI VAY TÍN CHẤP LÃI SUẤT 30%

Bẫy tài chính khi vay tín chấp lãi suất 30%

Thứ ba, 14/5/2013, 09:26 GMT+7 May 14 2013 09:26:10

Được chào mời vay tiền dễ dàng, chỉ cần hồ sơ photo và tiền được giải ngân chỉ sau 3 ngày, nhiều người đã vội vàng đồng ý mà bất chấp lãi suất cao gấp đôi ngân hàng.

Trong khi điều kiện vay vốn cá nhân tại các ngân hàng siết chặt như hiện nay, anh Dương – làm việc cho công ty phần mềm tại Trung Hòa, Cầu Giấy (Hà Nội) – vẫn thường xuyên nhận điện thoại chào mời cho vay tiền từ các công ty tài chính. Theo lời quảng cáo của nữ nhân viên bán hàng qua điện thoại, với mức lương 10 triệu đồng, anh có thể được vay tín chấp 60 – 100 triệu đồng và chỉ sau 3 ngày đã nhận được tiền. “Bên em quy trình thủ tục rất đơn giản, chỉ cần hồ sơ photo và vài cuộc điện thoại gọi tới nhà để thẩm định. Chỉ sau 3 ngày là đã có thể giải ngân”, nữ nhân viên này quảng cáo.

Nhiều công ty tài chính vẫn cho vay với lãi suất trên 30% một năm. Ảnh: Hoàng Hà.
Nhiều công ty tài chính vẫn cho vay với lãi suất trên 30% một năm. Ảnh: Hoàng Hà.

Anh Dương được thông báo lãi suất 2,63% theo tháng thay vì cách niêm yết theo năm của một số ngân hàng. Như vậy, lãi suất khách vay tín chấp theo hình thức này lên tới 31,5% một năm – gần gấp đôi so với vay tiêu dùng tại một số nhà băng hiện nay.

Lý giải về “cái giá đắt đỏ” của khoản vay này, nữ nhân viên tư vấn nói: “Nghe thì có vẻ cao thôi nhưng bên em không như ngân hàng, lãi suất sẽ cố định qua các năm và thủ tục vô cùng đơn giản, lại không cần thế chấp gì”.

Không riêng anh Dương mà rất nhiều người có thu nhập ổn định hàng tháng, hàng ngày vẫn nhận được lời mời mọc cho vay tiền từ các công ty tài chính, bất kể họ đang có nhu cầu hay không.

Một chuyên gia tài chính khuyến cáo nếu quá ham hố những điều kiện vay vốn dễ dãi này, nhiều người dân có thể rơi vào “bẫy tài chính” với mức lãi suất quá cao bởi nghĩ rằng kiểu vay này “chẳng mất gì”. Vị chuyên gia này phân tích: “Bình thường có thể cũng không quá cần vay tiền nhưng khi được mời mọc, họ lại nảy sinh những nhu cầu mới. Nhiều người đã vỡ nợ hoặc mất hết lương hàng tháng chỉ để trả lãi và gốc mà không còn tiền sinh hoạt”.

Trước thắc mắc của khách hàng về mức lãi suất trên dưới 30% một năm, nhân viên của một công ty tài chính có thị phần lớn trong lĩnh vực bảo hiểm giải thích do công ty không chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước. “Bọn em là doanh nghiệp FDI nên không chịu sự điều hành về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước”, nữ nhân viên này nói.

Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định lãi suất cho vay không được quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, hiện các hợp đồng vay vốn không còn theo quy định này và được áp dụng theo Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010.

Trao đổi với VnExpress.net, một chuyên gia pháp chế trong lĩnh vực ngân hàng cho rằng lãi suất trên 30% dù cao ngất ngưởng nhưng lại không trái với các quy định hiện hành bởi đó là sự thỏa thuận giữa hai bên cho vay và đi vay.

Theo giải thích của một phó tổng giám đốc ngân hàng thương mại, về bản chất, một công ty tài chính không có chức năng huy động vốn nên lãi suất đầu vào của nhóm này có thể cao ngang lãi suất cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, chi phí để xây dựng mạng lưới bán lẻ cũng lớn nên thường họ tính lãi suất rất cao.

Vị lãnh đạo này khuyến cáo người dân cần hết sức tỉnh táo khi lựa chọn hình thức vay tiền này. “Nguyên tắc số một trong kinh tế là lợi nhuận cao thì rủi ro lớn. Các công ty tài chính cũng phải chấp nhận rủi ro rất lớn khi cho vay tín chấp và không hề tuân theo quy trình cho vay của ngân hàng thương mại như vậy”, ông giải thích.

Trong khi đó, nếu quá cần kíp, buộc phải vay vốn theo hình thức này, các chuyên gia khuyên người tiêu dùng nên “đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng”. Một chuyên gia cho hay: “Nhiều người thấy dễ dàng là vay bằng được mà không cần biết lãi suất, kỳ hạn và hình thức phạt ra sao nên khi muốn thanh lý hợp đồng cũng rất khó khăn. Bởi tính ra tổng lãi phải trả cũng không thấp hơn nếu thanh toán nốt theo hợp đồng là bao nhiêu”

Thanh Thanh Lan

(Nguồn : VnExpress)

1eca156427374c8abf4738e42b464eef_L

NGƯỜI DÂN NGUY CƠ VỠ NỢ NẾU HAM MUA NHÀ LÃI SUẤT 6%’

‘Người dân nguy cơ vỡ nợ nếu ham mua nhà lãi suất 6%'

Hết 3 năm hưởng mức vay mua nhà 6%, nếu lãi suất thả nổi vọt lên rất cao, người có thu nhập thấp dễ rơi vào cảnh mất khả năng chi trả, vỡ nợ – chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu chia sẻ với VnExpress.

– Dự thảo Thông tư về cho vay hỗ trợ nhà ở của Ngân hàng Nhà nước trong gói 30.000 tỷ giải cứu bất động sản quy định lãi suất ưu đãi là 6% trong 3 năm đầu và thả nổi sau đó. Ông đánh giá thế nào?

– 6% là một mức lãi suất hấp dẫn nhưng nếu chỉ cố định trong 3 năm rồi thả nổi sau đó sẽ vô cùng bất ổn. Người dân mua nhà là mua tài sản cho cả đời nên việc trả nợ phải dựa trên thu nhập, với diện này thường là thu nhập thấp. Không có gì đảm bảo lãi suất sẽ không vọt lên 19-20% như từng xảy ra. 6% họ còn chịu được nhưng nếu cao hơn thì có thể rơi vào bẫy tài chính. Nhiều người dân sẽ vỡ nợ, việc bị siết nhà và ra đường là chuyện có thể tính tới.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng nên áp dụng lãi suất cố định trong suốt thời gian cho vay mua nhà. Ảnh: Thanh Lan.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng nên áp dụng lãi suất cố định trong suốt thời gian cho vay mua nhà. Ảnh: Thanh Lan.

– Ông có thể phân tích rõ hơn về những hệ quả của việc thả nổi lãi suất sau 3 năm?

– Tôi e nhiều người sẽ liều mạng vay tiền để có một căn nhà. Họ cứ chậc lưỡi sau 3 năm tính tiếp, lãi suất thả nổi đến mức nào và trả được không thì họ chưa nghĩ đến. Như vậy là rất phiêu lưu, mạo hiểm và nhiều người Việt Nam sẽ làm vậy.

Hậu quả dĩ nhiên lại là nợ xấu và ngân hàng sẽ siết nợ, thu hồi lại tài sản đó. Lúc này cả hai bên đều “thua”, ngân hàng dù lấy lại tài sản bán đi cũng chưa chắc bù lỗ được còn người dân thì mất nhà. Đừng để không chỉ bất động sản rơi tự do mà người dân cũng “rơi tự do” vì không có tiền trả nợ.

– Vậy ông nghĩ sao về thời hạn cho vay 10 năm?

– Thời hạn như vậy quá ngắn, rất ít gia đình thu xếp được và cần nới lên 20 năm. Trong tín dụng cho vay mua nhà, quan trọng nhất là thời gian trả nợ, càng dài càng tốt và dù lãi suất có hơi cao một chút thì vẫn chịu được. Ở Mỹ, ngay chính ngôi nhà tôi mua được hưởng thời hạn vay 30 năm.

Cho vay doanh nghiệp thì lấy doanh thu hiện tại trong ngắn hạn để trả nợ còn cho vay mua nhà ở thì đó là doanh thu hình thành rất dài trong nhiều năm, có thể còn nhiều rủi ro. Theo tôi nên nghĩ vậy để có cấu trúc phù hợp cho gói tín dụng này.

– Theo ông lãi suất và thời hạn như thế nào là phù hợp?

– Theo tôi Nhà nước nên tính toán để cho vay với lãi suất từ 5-10% nhưng phải là lãi suất cố định. Thời gian trả nợ ít nhất 20, thậm chí 30 năm thì người dân mới chịu được. Nếu lãi suất thả nổi thì nên quy định rõ việc điều chỉnh sẽ dựa trên những chỉ số cụ thể nào (ví dụ như CPI) thay vì chỉ nói chung chung “dựa theo thị trường”.

– Nhưng để cho vay thời hạn dài, lãi suất cố định thì ngân hàng lấy nguồn vốn dài hạn từ đâu khi thị trường vốn của VN còn kém phát triển?

– Chính phủ có thể phát hành trái phiếu trung và dài hạn, nếu chưa được 20 năm thì ít nhất là 10-15 năm. Nếu không thì có thể kể đến những nguồn tài trợ dài hạn của các tổ chức quốc tế. Công cụ mà Chính phủ nhiều nước tiên tiến áp dụng là thành lập công ty tài chính. Công ty này sẽ dùng nguồn vốn dài hạn trên thị trường vốn để tài trợ vốn thông qua việc mua những nợ bất động sản của các ngân hàng thương mại.

Tóm lại Chính phủ phải tự cân đối trong các bài toán để có được nguồn vốn dài hạn và phải mạnh bạo thì mới giải quyết được bài toán này.

– Nếu không có gì thay đổi về cấu trúc gói cho vay này, lãi suất vẫn cố định 3 năm đầu và ở 6% thì ông có lời khuyên nào với người dân?

– Vấn đề chính là thu nhập của họ, trong 3 năm vừa rồi có ổn định không. Nếu phải trả gốc và lãi cho ngân hàng quá 50% thu nhập mỗi tháng thì tôi khuyên họ không nên vay.

Tôi thấy người Việt Nam rất khác với người Mỹ. Tiền mua nhà của người Mỹ chỉ có một phần ba là tiết kiệm tự có, còn lại là đi vay, chủ yếu ở ngân hàng. Việt Nam thì ngược lại, khi mua nhà người dân sử dụng toàn bộ tiền tiết kiệm hoặc mượn của người thân và họ rất ngại làm việc với ngân hàng. Có thể vì chưa quen văn hóa tín dụng. Nếu có vay, họ sẵn sàng dồn hết số tiền có được để trả ngân hàng cho xong. Đây cũng là điều tốt nhưng dân Mỹ thì sẵn sàng vay nợ trong cả một thời gian dài, tiền nhàn rỗi sẽ dồn đầu tư vào việc khác thay vì thanh lý hợp đồng tín dụng. Điều này cũng góp phần tạo sự khác biệt giữa việc mua nhà của người Việt Nam và các nước khác.

– Ông đánh giá thế nào về sức lan tỏa của gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng đối với thị trường bất động sản cũng như tính khả thi khi đến với người dân?

– Tôi nghĩ để tháo gỡ thị trường bất động sản chỉ với 30.000 tỷ đồng quả là một ảo ảnh, so với với con số hàng triệu tỷ của thị trường thì chưa giải quyết được gì. Tuy nhiên, dù sao đây được xem là một bước giải quyết ban đầu khá tích cực của Chính phủ và tôi nghĩ sau đó vẫn cần những gói giải pháp khác nữa. Người dân cũng nên hiểu đây chỉ là phương án tháo gỡ bước đầu và Chính phủ chưa dừng lại ở gói này. Do đó, không nên ào ạt, nhảy xô vào vay mà cần bình tĩnh để suy xét khả năng trả nợ của mình.

Thanh Thanh Lan

(Nguồn: VnExpress)

48ed12281ae1f6453d2d5ec95b17e082_M

NGUY CƠ MẮC BẪY TÀI CHÍNH KHI VAY TIỀN MUA NHÀ

Nguy cơ mắc bẫy tài chính khi vay tiền mua nhà

Tiền vay quá nửa giá trị căn nhà, lãi trả nhà băng hàng tháng vượt nửa thu nhập… điều này có thể khiến chủ nhà gặp khó khăn với khoản nợ của mình.
Giá nhà liên tục hạ, nhà băng lại tỏ ra hào phóng hơn trước nên nhiều người định vay tiền để mua cho có chỗ “chui ra chui vào”. Theo các chuyên gia, chỉ nên vay ngân hàng khi đã có một nửa hoặc hai phần ba số tiền

Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Phó chủ tịch Tổng hội Xây dựng, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng, cho rằng một số dự án đã giảm về mức hợp lý, có thể chấp nhận được. Theo đó, người dân có thể thu xếp tài chính để mua nhà ở vào thời điểm này.

Đồng quan điểm này, ông Nguyễn Đại Lai – chuyên gia tài chính ngân hàng – cũng cho rằng nên vay tiền ngân hàng để mua nhà lúc này nếu tiên liệu được khả năng trả nợ của mình. “10 năm tiền thuê nhà có thể bằng tiền mua đứt một căn hộ rồi”.

Vợ chồng anh Nguyễn Đình Dũng, Nghĩa Tân, Cầu Giấy có khoảng 150 triệu đồng tiết kiệm, muốn vay thêm để mua căn hộ chung cư bình dân mới mở bán gần đây. Theo anh, nếu vay người thân trong gia đình thì không được lâu dài. Một số người khuyên nên vay ngân hàng và thế chấp chính căn nhà mình mua. Tuy nhiên, anh Dũng rất lo lắng về khả năng chi trả bởi vì thu nhập của 2 vợ chồng hiện chỉ được khoảng 13 triệu đồng.

“Nếu vay ngân hàng, mỗi tháng phải trả lãi và gốc mất nửa số thu nhập. Còn khoảng 5 – 6 triệu để trả tiền nhà thuê, sinh hoạt phí của 2 vợ chồng và con trai một tuổi thì quá eo hẹp”, anh Dũng tính toán.

Các chuyên gia khuyên mua nhà tại thời điểm này nhưng nếu vay tiền ngân hàng thì cần tính toán kỹ lưỡng. Ảnh: Hoàng Hà.
Các chuyên gia khuyên mua nhà tại thời điểm này nhưng nếu vay tiền ngân hàng thì cần tính toán kỹ lưỡng. Ảnh: Hoàng Hà.

Cách đây một tháng, chị Đỗ Hồng Thúy, Ngọc Hồi, Thanh Trì định mua một căn hộ đóng tiền theo giai đoạn ở khu vực Hà Đông. Chủ đầu tư giới thiệu sẽ hỗ trợ vay 70% giá trị căn hộ, lãi suất thời gian đầu là 9,9% một năm. Ban đầu, vợ chồng chị Thúy cũng sốt sắng gom tiền đóng đợt một và tính sau khi đóng đợt 2 sẽ thế chấp chính căn nhà để vay ngân hàng. Tuy nhiên, tính toán lại, chị Thúy quyết định chưa mua vội. “Nếu không cân nhắc kỹ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình, trong đó có con nhỏ. Áp lực trả nợ khi đó cũng khiến mình rất mệt mỏi”, chị Thúy chia sẻ.

Theo anh Phạm Minh Đức (Thanh Xuân, Hà Nội), hiện lãi suất vẫn khá cao, do đó nếu tính đến việc vay ngân hàng thì nên cân đối nguồn trả nợ trước, để tránh khi vay lại không có khả năng trả. “Điều này còn gây ra lịch sử nợ xấu và sau này muốn đi vay ở ngân hàng khác cũng khó. Nếu các gia đình đã lên kế hoạch kỹ lưỡng rồi thì không đáng ngại”, anh Đức cho hay.

Một trong những lo ngại của người dân khi nghĩ đến việc vay tiền ngân hàng là sợ lãi suất ngân hàng “đỏng đảnh”, biến động khó lường. Chia sẻ những băn khoăn này, các chuyên gia tài chính khuyến cáo người dân hãy để ý thật kỹ các quy định về lãi suất và thời hạn vay và điều khoản thanh lý hợp đồng. Ông Lê Xuân Nghĩa – thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia – cho rằng: “Đây là thời điểm tốt để mua nhà nhưng nếu vay ngân hàng thì nên chờ lãi suất giảm thêm. Thời hạn vay phải dài (khoảng 10 – 15 năm trở lên). Tổng số tiền trả lãi và gốc hàng tháng không được vượt quá 50% tổng thu nhập của gia đình bạn”.

Ông Lê Quang Trung – Phó tổng giám đốc, Giám đốc khối Nguồn vốn và Ngoại hối Ngân hàng Quốc tế (VIB) thừa nhận người mua nhà phải tính kỹ trước khi vay tiền. “Bạn phải cân nhắc kỹ, có chịu được nhiệt nếu thị trường biến động hay không thì mới vay? Vấn đề là khẩu vị rủi ro của bạn tới đâu, bạn có sẵn sàng vay, nếu lãi suất biến động lớn thì có trả được không”, ông khuyến cáo.

“Về phần lãi suất, theo tôi phía ngân hàng cũng không nên đỏng đảnh quá. Thời buổi này khó khăn lắm mới có được khách, có rồi lại cứ thay đổi lãi suất xoành xoạch thì cũng không nên”, chuyên gia Đại Lai nói thêm.

Từ phía ngân hàng, các nhà băng đều thừa nhận đây là lúc họ rất cần khách và sẵn sàng mở cửa hầu bao cho vay mua nhà. Trao đổi với VnExpress.net, đại diện Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng khuyên: “Nếu mua nhà để ở thì nên vay bởi vì nhà giá đang rẻ mà các ngân hàng cũng thích cho vay tiêu dùng. Ngược lại, nếu mua để đầu cơ thì tôi khuyên không nên”.

Tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần có trụ sở tại Hà Nội còn nói, nếu giờ chưa có nhà tôi cũng mua. Tuy nhiên, ông này khuyến cáo không nên “đâm đầu vào đá” khi quyết mua bằng được nếu nguồn tiền tự có ít và phải vay ngân hàng quá nhiều.

Trường hợp tương tự của chị Nguyễn Phương Linh. Hai vợ chồng chị mới tiết kiệm được 80 triệu nhưng muốn mua căn hộ giảm giá hơn 500 triệu nên định vay ngân hàng toàn bộ số còn lại. Chia sẻ mong mỏi có nhà với chị Linh nhưng vị giám đốc trên cho rằng không nên làm vậy. Theo ông, muốn mua nhà thì tối thiểu phải có một nửa số tiền để không phải chịu gánh nợ quá lớn, nếu không người mua có nguy cơ mất nhà khi không thể trả được lãi và gốc.

Ông Lê Quang Trung cũng cho rằng “tay không bắt giặc” thì không nên. Ông phân tích: “Cũng như doanh nghiệp, khi đòn bẩy tài chính quá nhiều sẽ gây ra áp lực. Nếu bạn vay quá nhiều tiền ngân hàng để mua nhà cũng tương tự như vậy. Nếu tổng thu nhập hàng tháng là 100 đồng thì chỉ nên dành 30 đồng, tối đa 50 đồng cho việc chi trả khoản vay nào đó thôi”.

Thanh Lan – Ngọc Tuyên

(Nguồn : VnExpress)

a27a3b73d355048c6bab885897085f62_M

SIẾT NHẬP KHẨU THỦY SẢN, DOANH NGHIỆP KHÓC RÒNG

Siết nhập khẩu thủy sản, doanh nghiệp khóc ròng

Hàng loạt doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu đang đứng trước nguy cơ phá sản. Quy định của Bộ NN-PTNT yêu cầu các cơ sở nhập khẩu thủy sản của nước ngoài vào VN phải thực hiện đăng ký và chịu sự kiểm soát của cơ quan chức năng VN. Từ đó, hàng chục doanh nghiệp (DN) nhập khẩu thủy sản đang đứng trước bờ vực phá sản vì không còn nguyên liệu chế biến.

Hàng loạt doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu từ nguyên liệu nhập khẩu đang đứng trước nguy cơ phá sản.
Quy định của Bộ NN-PTNT yêu cầu các cơ sở nhập khẩu thủy sản của nước ngoài vào VN phải thực hiện đăng ký và chịu sự kiểm soát của cơ quan chức năng VN. Từ đó, hàng chục doanh nghiệp (DN) nhập khẩu thủy sản đang đứng trước bờ vực phá sản vì không còn nguyên liệu chế biến Bỗng dưng… khó tính
Gần đây, Bộ NN-PTNT đã ban hành Thông tư số 06/2010/TT-BNNPTNT về việc quy định trình tự thủ tục kiểm dịch sản phẩm động vật trên cạn và sản phẩm thủy sản dùng làm thực phẩm, tiếp theo đó là Thông tư số 25/2010/TT-BNNPTNT hướng dẫn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đối với hàng hóa động vật, thủy sản nhập khẩu. Theo đó, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa có nguồn gốc động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào VN phải được sản xuất bởi cơ sở sản xuất kinh doanh được cơ quan có thẩm quyền của VN công nhận đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về đảm bảo VSATTP theo quy định của VN. Mỗi lô hàng nhập khẩu phải kèm theo Giấy chứng nhận đáp ứng các quy định về VSATTP do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp và chỉ được đưa vào sản xuất hoặc tiêu thụ tại VN sau khi được cơ quan kiểm tra của VN thực hiện kiểm tra tại cửa khẩu hoặc nơi tập kết và cấp giấy chứng nhận hoặc thông báo đạt yêu cầu VSATTP. Trong trường hợp vi phạm, cơ quan chức năng sẽ đình chỉ xuất khẩu vào VN đối với cơ sở sản xuất kinh doanh có kết quả kiểm tra giám sát điều kiện đảm bảo VSATTP của cơ sở sản xuất kinh doanh không đáp ứng đầy đủ các quy định; đình chỉ nhập khẩu sản phẩm của nước xuất khẩu trong trường hợp kết quả kiểm tra giám sát cho thấy hệ thống kiểm soát VSATTP của nước xuất khẩu không tuân thủ các quy định của VN.
Quy định nói trên có thể được hiểu là nhằm hạn chế sản phẩm động vật phế thải tràn về VN như thời gian trước, ngoài ra còn góp phần làm giảm nhập siêu. Thế nhưng nếu chỉ áp dụng riêng cho sản phẩm động vật, hoặc thủy sản nhập khẩu để tiêu thụ nội địa thì còn có lý, đằng này thông tư 06 và 25 đã máy móc áp dụng luôn cho các mặt hàng thủy sản nhập khẩu làm nguyên liệu để chế biến, tái xuất, từ đó vô tình đã làm ảnh hưởng đến hàng chục DN cùng với hàng trăm ngàn công nhân. Thời hạn áp dụng quy định này từ ngày 1.7, sau đó được gia hạn đến ngày 1.9, nhưng đáp lại chỉ là sự bức xúc tột cùng của DN nhập khẩu thủy sản và sự tham gia miễn cưỡng của các nước khác.
Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiqad) đến nay chỉ gửi công hàm đến được 30 quốc gia và vùng lãnh thổ để yêu cầu việc đăng ký. Còn trên 40 thị trường khác Nafiqad không gửi được vì họ không có đại sứ quán tại VN, trong đó lại có những nơi cung cấp thủy sản lớn cho VN như đảo Vanuatu, Fiji, Solomon…
Trong số gần 80 thị trường nhập khẩu thủy sản vào VN, đến nay chỉ có 10 nước thực hiện việc đăng ký này.
Mất nguồn nguyên liệu, mất khách hàng
Thông tư 25 cho thời hạn áp dụng quá gấp, trong khi các thị trường nhập khẩu vẫn chưa nhận được thông tin gì từ cơ quan chức năng VN. Ông Nguyễn Xuân Nam, Giám đốc Công ty hải sản Hải Vương (Khánh Hòa), bức xúc: “Chúng tôi mỗi năm thu về kim ngạch trên 110 triệu USD nhờ nhập khẩu cá ngừ đại dương, sau đó chế biến tái xuất. Ai cũng biết nguồn hải sản ở VN đang cạn kiệt vì khai thác quá mức, trong khi do khả năng hạn chế, tàu cá VN rất khó đánh bắt được cá ngừ đại dương. Việc nhập khẩu nguyên liệu để chế biến đã giúp chúng tôi có được thêm thu nhập, giải quyết công việc ổn định cho công nhân. Nhưng với Thông tư 25, nhiều nước cung cấp nguyên liệu đã phản đối, một số nước thì thẳng thừng từ chối đăng ký, có nước cũng đồng ý đăng ký nhưng họ nói không biết đăng ký cái gì. Vì vậy chúng tôi đang mất đi nguồn nguyên liệu, mất khách hàng, hơn 2.000 công nhân nhà máy sẽ phải nghỉ việc”.
Ông Nguyễn Phạm Thanh, Tổng giám đốc Công ty Highland Dragon Enterprise, đại diện cho 4 nhà đầu tư nước ngoài khác tại Khu công nghiệp Sóng Thần 1 (Bình Dương), nói gần như khóc: “Tôi và nhiều DN khác đầu tư vào VN chế biến cá ngừ đóng hộp, mỗi năm nhập khẩu khoảng 4.000-5.000 tấn cá từ nước ngoài để chế biến. Chỉ riêng lĩnh vực này mỗi năm các DN đã mang về gần 500 triệu USD. Nhưng Thông tư 25 ra đời gần như làm ách tắc tất cả. Nguyên liệu dự trữ của chúng tôi chỉ đến giữa tháng 9 là hết, nhưng hiện nay chúng tôi không thể ký thêm hợp đồng mới. Gần 3.000 công nhân của chúng tôi sắp phải thất nghiệp. Chúng tôi không thể giải thích được với công ty mẹ, với đối tác của chúng tôi điều gì đang xảy ra ở VN. Chúng tôi cũng không hiểu tại sao Bộ NN-PTNT lại có thể quy định như vậy?”.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản VN (VASEP), cho biết: “Từ tháng 5.2010, VASEP đã liên tiếp có công văn kiến nghị Bộ NN-PTNT và có cả những buổi làm việc trực tiếp với Cục Thú y, Nafiqad… về những điều vô lý của Thông tư 25, nhưng cho đến nay, khi các DN đã bắt đầu nhìn thấy cảnh phá sản, những quy định này vẫn không được dỡ bỏ. Theo tôi, không cần thiết phải siết chặt các quy định nhập khẩu đối với hàng thủy sản nhập khẩu, bởi thực tế 90% nguồn hàng này được tạm nhập, chế biến và tái xuất, còn tiêu thụ nội địa rất ít”.

2964cd8751427f56b2f06582b92bec36_M

HÀNG LOẠT VỤ BỘI TÍN TRONG HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH THANH TOÁN

Hàng loạt vụ bội tín trong hợp đồng bảo lãnh thanh toán

Ký hợp đồng mua bán vì tin tưởng ngân hàng đứng đằng sau bảo lãnh, nhưng giờ đây nhiều doanh nghiệp có nguy cơ mất trắng vì đối tác mất khả năng thanh toán, mà ngân hàng cũng tìm lý do chối bỏ nghĩa vụ của mình.

Trao đổi với VnExpress.net, lãnh đạo một ngân hàng cổ phần quy mô lớn nhìn nhận, nghiệp vụ ký phát hành chứng thư bảo lãnh trái phiếu trước đây xảy ra khá ồ ạt vì đây là cách để các nhà băng lách “room” tín dụng. Trước đây mua trái phiếu doanh nghiệp không được tính vào dư nợ tín dụng của ngân hàng. Vì thế khi không còn hạn mức tăng trưởng tín dụng, ngân hàng gợi ý doanh nghiệp phát hành trái phiếu rồi họ đứng ra bảo lãnh. “Tuy nhiên, đó là chuyện của trước đây, khi Ngân hàng Nhà nước chưa tính phát hành giấy tờ có giá, trái phiếu doanh nghiệp vào tăng trưởng tín dụng”, ông nói.

Tranh cãi giữa ngân hàng và một công ty tài chính về hợp đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu mới đây là một ví dụ điển hình. Công ty tài chính này đồng ý mua 150 tỷ đồng trái phiếu của một đối tác với điều kiện ngân hàng sẽ đứng ra thanh toán cả gốc lẫn lãi nếu có chuyện bất trắc xảy ra. Tuy nhiên, khi trái phiếu đến hạn, doanh nghiệp phát hành không thanh toán, ngân hàng cũng từ chối thực hiện nghĩa vụ với lý do chứng thư bảo lãnh đã được ký trái quy định.

Sự việc tương tự cũng xảy ra với một nhà băng quốc doanh cách đây vài tháng. Nhiều công ty đã bán thiết bị, nguyên vật liệu cho cùng một đơn vị là công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Tân Hồng ở Từ Liêm, Hà Nội dưới sự bảo lãnh chi nhánh ngân hàng này. Hàng đã giao tận tay, đến thời hạn trả tiền, Công ty Tân Hồng không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ của mình cho các công ty đã bán thiết bị. Lẽ ra, khi hết thời gian bảo lãnh, ngân hàng phải thay Tân Hồng Hà đứng ra thanh toán cho những đơn vị trên.

Nhiều nhà băng thoái thác trách nhiệm bão lãnh thanh toán vào phút chót. Ảnh: Hoàng Hà.
Nhiều nhà băng thoái thác trách nhiệm bão lãnh thanh toán vào phút chót. Ảnh: Hoàng Hà.

Thế nhưng, phía nhà băng từ chối trả tiền bảo lãnh và cho biết phải đợi phán quyết của tòa án bởi chứng thư bảo lãnh đang được Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh làm rõ. Hơn nữa, ngân hàng cho biết chứng thư bảo lãnh đó không hề lưu hồ sơ, và đã phát hành vượt thẩm quyền. Cuối cùng hai bên phải gặp nhau tại tòa để phân xử.

3 tháng trước, hàng chục khách hàng là đại diện cho một doanh nghiệp viễn thông đã vây kín trụ sở tại Hà Nội của một ngân hàng cổ phần để đòi nợ. Doanh nghiệp này cho biết, sau khi bán hàng cho một đối tác đã nhận được chứng thư bảo lãnh thanh toán (L/C) của ngân hàng trên. Tuy nhiên, quá thời hạn, công ty trên vẫn chưa nhận được tiền, còn ngân hàng thì từ chối trách nhiệm thanh toán khiến hoạt động của doanh nghiệp lao đao. “Không có tiền, hoạt động sản xuất của công ty đình đốn, lương công nhân thì phải thiếu nợ mấy tháng liền”, lãnh đạo doanh nghiệp này nói.

Nhiều doanh nghiệp cho rằng ký bảo lãnh thanh toán cũng như không. Ảnh: Hoàng Hà.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng ký bảo lãnh thanh toán cũng như không. Ảnh: Hoàng Hà.

Điểm chung của các trường hợp từ chối thanh toán là ngân hàng thường lấy lý do chứng thư bảo lãnh ký sai quy trình, không đúng quy định.

Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng cũng cho rằng, với mỗi nhà băng, uy tín vẫn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. “Nếu họ từ chối thanh toán với một chứng thư bảo lãnh hợp lệ thì họ đang vi phạm những nguyên tắc chung trong kinh doanh”, ông cho biết.

Đồng tình với ông Hiếu, một vị chuyên gia khác trong lĩnh vực tài chính nhìn nhận, rất khó để các doanh nghiệp có thể biết được những quy định nội bộ của một ngân hàng. Do đó, không nên đánh đố họ bằng cách này để họ tự phải xác định đâu là một hợp đồng, một chứng thư hợp lệ, không giả mạo.

Tiến sĩ Alan Phan, Chủ tịch Quỹ đầu tư Viasa Hong Kong thừa nhận hình thức ký phát hành trái phiếu bảo lãnh của các ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro. “Vì lẽ đó, ở Mỹ các ngân hàng ít sử dụng cách này. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp, nếu một nhân viên vượt quá thẩm quyền để ký phát hành hay làm điều gì đó thì trước hết, ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm về mặt pháp nhân với doanh nghiệp kia rồi mới xử lý nội bộ và xử lý nhân viên đó. Việc nhân viên của anh sai thì người ngoài đâu biết được”, ông Alan Phan phân tích.

Phân tích về khía cạnh pháp lý, Luật sư Trần Văn Đôn, Công ty TNHH Đông Phương Luật cho rằng, trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, bên nhận bảo lãnh sẽ gửi thông báo tới ngân hàng yêu cầu nhà băng thanh toán. Cam kết bảo lãnh thông thường có nội dung ngân hàng chấp nhận bảo lãnh trong phạm vi số tiền bảo lãnh là bao nhiêu và thời hạn bảo lãnh được xác định rõ. Trong thời hạn và hạn mức bảo lãnh đó, bên nhận bảo lãnh được yêu cầu ngân hàng thanh toán tiền bảo lãnh.

Trường hợp do vi phạm nội bộ, trước hết để bảo vệ uy tín của mình, hiếm có nhà băng nào cho rằng vì nguyên nhân như vậy mà không thanh toán. Bởi khách hàng không thể biết rõ được tình hình nội bộ, quản trị rủi ro của ngân hàng như thế nào nên không thể bắt khách hàng chịu hậu quả.

Luật sư cho biết thêm, căn cứ vào các quy định của pháp luật, nếu các bên nhận bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ thủ tục yêu cầu thanh toán mà nhà băng không thanh toán bảo lãnh thì nghiễm nhiên phía ngân hàng đã vi phạm cam kết. Vi phạm này sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự về lãi chậm trả…

Một chuyên gia khuyến cáo, chứng thư bảo lãnh là một thể thức thanh toán tiến bộ. Tuy nhiên, để tránh rủi ro cho các bên, bản thân ngân hàng cần quản chặt cán bộ ngân hàng, tránh xảy ra lạm quyền trong khi thi hành công vụ do ký chứng thư bảo lãnh thanh toán. Ngoài ra, nên thẩm định chặt chẽ các điều kiện, áp đặt các phương pháp bảo đảm rủi ro.

Thanh Lan – Lệ Chi

(Nguồn: VnExpress)

24d767ce6c156eb07b1fc26c266211f5_M

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CẢNH BÁO VỀ CHỨNG THƯ BẢO LÃNH GIẢ

Ngân hàng Nhà nước cảnh báo về chứng thư bảo lãnh giả

Cơ quan an ninh cho biết, chứng thư bảo lãnh giả là một hình thức tội phạm mới, có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho doanh nghiệp cũng như uy tín của ngân hàng.

Văn bản cảnh báo về tình trạng làm giả chứng thư bảo lãnh vừa được Ngân hàng Nhà nước gửi Tổng giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng trong ngày 19/11.

Vấn đề bắt đầu được dư luận chú ý sau sự kiện 2 chứng thư bảo lãnh của Ngân hàng HSBC bị làm giả. Các chứng thư này có giá trị lên đến 80 tỷ đồng và được cơ quan công an phát hiện hồi đầu tháng 11.

Chứng thư bảo lãnh giả có thể gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Ảnh minh họa: Hoàng Hà
Chứng thư bảo lãnh giả có thể gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp và ngân hàng. Ảnh minh họa: Hoàng Hà

Trong vụ việc này, nhân viên Trần Công Dũng của HSBC đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý con dấu của ngân hàng, cấu kết với 2 đối tượng ở bên ngoài, làm giả chứng thư để chào bán cho các công ty có nhu cầu về chứng thư bảo lãnh. Theo kết quả điều tra của cơ quan công an, trong thời gian tháng 7-10/2010, Dũng và đồng phạm đã “bán” được 2 chứng thư loại này cho doanh nghiệp với tổng giá trị bảo lãnh thanh toán lên tới 80 tỷ đồng, qua đó thu về không dưới 500 triệu đồng tiền hoa hồng.

Theo thông báo của Cục An ninh tài chính tiền tệ và đầu tư, Bộ Công an, việc làm giả chứng thư bảo lãnh của ngân hàng đang được các đối tượng thực hiện theo một quy trình chung. Nhân viên ngân hàng sử dụng con dấu lấy được do sơ hở quản lý để đóng dấu khống lên phôi giấy trắng có in logo của ngân hàng. Đối tượng này cũng giả mạo thêm chữ ký của lãnh đạo ngân hàng để làm chứng thư bảo lãnh giả. Tiếp đó, đối tượng ngoài ngân hàng sử dụng chứng thư bảo lãnh giả để viết tên của khách hàng.

Theo cơ quan công an và Ngân hàng Nhà nước, đây là hình thức phạm tội mới, có sự câu kết giữa đối tượng ngoài ngân hàng với nhân viên ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tiền của khách hàng.

Để phòng ngừa vụ việc tương tự có thể xảy ra, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng rà soát và ban hành đầy đủ quy trình quản lý, sử dụng và bảo quản con dấu tại đơn vị. Ngoài ra, các nhà băng cũng cần tăng cường công tác quản lý nhân sự, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về quản lý và sử dụng con dấu. Trong trường hợp phát hiện dấu hiệu lừa đảo, tổ chức tín dụng cần khẩn trương báo cáo Ngân hàng Nhà nước và cơ quan pháp luật để ngăn chặn và xử lý kịp thời.

Riêng về trường hợp của HSBC, đại diện của ngân hàng này khẳng định đã rà soát và áp dụng quy chế quản lý con dấu mới ngay sau khi phát hiện ra sự việc nói trên. HSBC cũng đang đợi kết quả điều tra của cơ quan công an trước khi tiến hành các bước xử lý tiếp theo.

Nhật Minh

(Nguồn : VnExpress)

18325a37bf525b9d88d51a3441669c72_M

SIẾT CHI PHÍ QUẢNG CÁO TRÓI TAY DOANH NGHIỆP NỘI

Siết chi phí quảng cáo trói tay doanh nghiệp nội

TT – Quy định khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị… không quá 10% từ lâu đã bị cộng đồng doanh nghiệp phản ứng.

 Việc khống chế chi phí quảng cáo, theo nhiều doanh nghiệp, đang khiến họ không thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài – Ảnh: T.T.D.

Đỉnh điểm của sự bức xúc này đã xảy ra khi ông Phan Đăng Tuất – chủ tịch HĐTV Tổng công ty Bia rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) – mới đây đã kịch liệt phê phán cho rằng quy định này đang “tiêu diệt” doanh nghiệp trong nước.

Theo một lãnh đạo Bộ Tài chính, với quy định hiện nay, doanh nghiệp mới thành lập trong ba năm đầu đã được chi cho quảng cáo, tiếp thị đến 15% và được tính vào chi phí hợp lý trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này nhằm giúp những doanh nghiệp mới có điều kiện quảng bá, tiếp thị để tiếp cận người tiêu dùng. Thừa nhận quy định hạn chế mức chi cho quảng cáo chỉ được đến 10% như hiện nay có nhiều doanh nghiệp không đồng tình vì hạn chế khả năng quảng bá để nâng doanh thu, nhưng vị lãnh đạo Bộ Tài chính cho rằng cần tính một cách tổng thể. Bởi nếu “thả”, không khống chế chi phí quảng cáo nữa thì nhiều hãng nước ngoài, công ty đa quốc gia có thể tăng rất mạnh chi phí quảng cáo. Hiện nay, một số sản phẩm như sữa, chi phí quảng cáo, tiếp thị cao đã đẩy cả vào giá thành và người tiêu dùng phải chịu.

Hiện Bộ Tài chính đang trình dự thảo sửa đổi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó sẽ nâng mức chi cho quảng cáo tới 15% tổng chi phí. Việc quyết định mức nào hay bãi bỏ hẳn, theo vị lãnh đạo Bộ Tài chính, sẽ thuộc thẩm quyền Quốc hội.

Phát biểu tại hội thảo “Cạnh tranh lành mạnh bảo vệ người tiêu dùng và thương hiệu Việt”, tổ chức ngày 14-5 ở Hà Nội, ông Phan Đăng Tuất cho biết hiện tổng công ty của ông đang gặp khó vì quy định khống chế chi phí quảng cáo, tiếp thị… không được quá 10% “chi phí thực tế phát sinh trong kỳ” (tức chi quảng cáo không được quá 10% tổng chi phí hợp lý được trừ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp – pv). Ông Tuất cho rằng quy định này góp phần “tiêu diệt” doanh nghiệp trong nước. Lý giải điều bất cập này, ông Tuất phân tích: chi phí thực tế phát sinh trong kỳ chỉ biết được khi đã kiểm toán (thường vào ngày 31-3 năm sau, riêng tổng công ty lớn như Sabeco có thể tháng 4 mới xong). Nên trong năm doanh nghiệp không biết sẽ được chi bao nhiêu, phải rất cẩn trọng bởi nếu lạm chi thì sẽ bị xử lý.

Trao đổi với báo chí bên lề hội thảo, ông Phan Đăng Tuất cho biết thêm:

– Quản ở khâu chi phí là cách quản lý ở thời kỳ cổ điển. Đáng lý cần quản ở doanh thu thì sẽ kích thích doanh nghiệp tạo nhiều lợi nhuận. Nếu quản ngay từ phí, ta có bằng chứng sinh động: chẳng hạn phí chuyển nhượng ôtô cao người ta không chuyển nhượng, không sang tên đổi chủ. Hạ phí ở mức người ta chấp nhận được thì Nhà nước quản được, nguồn thu lại tăng. Doanh nghiệp, nhất là ngành bia, nếu cứ khống chế 10% chi phí quảng cáo như thế này là “bó tay” chúng tôi. Nếu vẫn áp dụng thế này, khoảng 10 năm nữa các hãng nước giải khát trong nước bằng cách này cách khác sẽ thui chột.

Vì vậy, tôi cho rằng các vị làm chính sách cần ngồi lại với nhau bàn lại. Quy định hạn chế ở mức 10% hiện nay và trước đây là 7% tôi đã nói cách đây tám năm là không nên. Bây giờ lại bàn nhích lên 15% vẫn chưa thỏa đáng.

* Nhưng có ý kiến cho rằng việc khống chế chi phí quảng cáo không quá 10% bởi VN mới ở giai đoạn đầu phát triển, nếu không doanh nghiệp có thể đưa chi phí lên cao để né nộp thuế?

– Quy định như thế, doanh nghiệp như chúng tôi không đủ chi phí quảng cáo, có thể phải “gian” chi phí để nâng mức được phép lên. Nếu để giữ thương hiệu cho VN, phải cho 30% may ra mới cạnh tranh được, bởi các hãng nước ngoài hiện họ chi 20% doanh thu! Ở VN được đăng ký ba hệ thống kế toán. Duy hệ thống kế toán VN quy định cái đó, còn hệ thống kế toán Anh, Mỹ không quy định, miễn có hóa đơn là được tính chi phí. Nếu quản lý nhà nước đã khống chế, phải dõi theo từng ngành. Bởi có ngành cần 30%, nhưng có ngành chỉ cần 2%. Nếu cào bằng, doanh nghiệp cần quảng cáo sẽ chết, còn doanh nghiệp không cần thì lợi.

CẦM VĂN KÌNH

(Nguồn: Báo tuổi trẻ)

Trao đổi với Tuổi Trẻ, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng cần sớm sửa đổi quy định này để tránh thiệt thòi cho doanh nghiệp trong nước.

Ông Đỗ Kim Dũng (phó chủ tịch Hiệp hội Quảng cáo VN): Hầu hết các nước đều không áp dụng

Để có thị phần, doanh nghiệp phải đầu tư cho phần mềm, trong đó phải có chi tiền để kích hoạt thương hiệu, quảng cáo chính là đầu tư về mặt chiến lược. Cần hiểu 10% với một sản phẩm đang lưu hành và quen thuộc trên thị trường là lớn nhưng với một sản phẩm mới, nhãn hiệu mới thì không thể chi 10% để có thị phần. Việc phát triển một nhãn hiệu mới hoàn toàn với một sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường và doanh số của một sản phẩm mới khó có thể so bì với một sản phẩm đã được ưa thích. Nếu khống chế thì các doanh nghiệp đi sau không có cơ hội tăng thị phần, không đủ năng lực để tăng cường sức cạnh tranh của mình, khống chế chi phí quảng cáo chả khác gì tiêu diệt doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong nước.

Trên thế giới đã phổ cập khuynh hướng không khống chế mức phí trong quảng cáo, chỉ còn VN và Trung Quốc duy trì quy định này. Con số 10, 15 hay thậm chí 30% không nên tồn tại vì bản thân nó chẳng giải quyết được gì.

Ông Trần Bảo Minh (giám đốc điều hành phụ trách chiến lược kinh doanh, marketing Công ty cổ phần Sữa quốc tế – IDP):Ngồi nhìn doanh nghiệp nước ngoài lấy thị phần

Chi phí quảng cáo không chỉ đơn giản là trên truyền hình, quảng cáo ngoài trời mà còn bao gồm cả khuyến mãi, tặng quà cùng nhiều hoạt động khác. Trong thời buổi hiện nay, khi tất cả chi phí dành cho quảng cáo đều tăng nhưng sức mua thị trường, cạnh tranh giữa các thương hiệu ngày càng cam go thì số tiền chi cho quảng cáo nếu tính ở trong mức khống chế chả đáng là bao. Vì vậy, khống chế chi phí quảng cáo là tự đè doanh nghiệp trong nước, chẳng khác gì bắt họ phải ngồi nhìn doanh nghiệp nước ngoài lấy thị phần. Có những thương hiệu nước ngoài khi mới vào thị trường VN sẵn sàng chi đến 30-40% doanh số dành cho quảng cáo với mục tiêu giành thị phần càng nhanh càng tốt. Họ có thể chịu đựng chính sách này đến 2-3 năm với nguồn tiền rót từ công ty mẹ ở nước ngoài. Trong khi đó doanh nghiệp VN lại bị bó buộc với mức khống chế, loay hoay làm quảng cáo với số tiền ít ỏi. Chưa kể 10% doanh số của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ giá trị chênh lệch nhau rất nhiều. Vô hình trung, cơ hội vươn lên của doanh nghiệp nhỏ bị mất.

Ông Huỳnh Kiến Nam (giám đốc Công ty mỹ phẩm Gia Đình): Doanh nghiệp nhỏ cũng bị hạn chế

Doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi chỉ dám sử dụng những phương thức quảng cáo truyền thống như thông qua các hội chợ, khuyến mãi tại điểm bán… hoặc đi về các tỉnh, chưa thể chi tiền để xuất hiện trên truyền hình nhưng đã cảm thấy áp lực với mức khống chế 10% trong quảng cáo. Đơn giản như thực hiện khuyến mãi tại siêu thị, các siêu thị luôn yêu cầu doanh nghiệp phải giảm sâu và hấp dẫn nhưng chúng tôi không thể làm vì như vậy sẽ không còn ngân sách để làm các chương trình khác. Trong khi đó, các tập đoàn đa quốc gia có thể khuyến mãi khủng và người tiêu dùng nhanh chóng bị thu hút.

Như Bình ghi

e2dc343852dcc66e453f7f9901577ec5_M

LUẬT PHÁ SẢN: HƠN NỬA QUY ĐỊNH GẶP VƯỚNG

Luật phá sản: Hơn nửa quy định gặp vướng

05/08/2013 – 06:20

Theo TAND Tối cao, tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản cho thấy có tới 55 điều luật trên tổng số 95 điều luật của luật này gặp vướng mắc, bất cập, gây khó khăn cho việc giải quyết của các tòa…

Gần đây, Công ty A bị một số chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa Kinh tế TAND TP.HCM. Sau khi thụ lý, tòa đã yêu cầu phía Công ty A nộp các báo cáo, tài liệu (tình hình hoạt động kinh doanh, các biện pháp đã thực hiện, bảng kê chi tiết tài sản…) theo luật định.

Lúng túng khi DN không hợp tác

Tuy nhiên, phía Công ty A không hợp tác, cố tình tìm lý do dây dưa kéo dài, không nộp báo cáo, tài liệu theo yêu cầu của tòa. Vì vậy, tòa đã gặp khó khăn trong việc ra quyết định mở thủ tục phá sản và tiến hành các bước tố tụng tiếp theo.

Vướng mắc này đã được TAND Tối cao nhìn nhận. Theo TAND Tối cao, thực tế rất nhiều doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) không cung cấp được đầy đủ các tài liệu theo yêu cầu của các tòa địa phương. Hồ sơ pháp lý về các khoản nợ hết sức sơ sài, thiếu chứng cứ để trả nợ và thu nợ vì không được chủ nợ cùng người mang nợ đối chiếu… Cạnh đó, khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản không quy định các báo cáo, tài liệu phải được DN và HTX thực hiện trong khoảng thời gian nào.

Về chuyện này, Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM Nguyễn Công Phú đề nghị Luật Phá sản cần bổ sung chế tài với chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX nếu không hợp tác với tòa. Cụ thể: Nâng mức phạt từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng khi các đối tượng trên có hành vi không xuất trình cho tòa các báo cáo, tài liệu trong hạn luật định. Mặt khác, cần bổ sung vào BLHS tội danh không chấp hành các quyết định, yêu cầu của tòa trong quá trình tiến hành các thủ tục phá sản dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính.

Phí phá sản: Còn chưa rõ

Chủ nhiệm HTX B nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ra Tòa Kinh tế nhưng không có tiền nộp tạm ứng phí phá sản. Theo điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Phá sản, HTX B sẽ được Nhà nước tạm ứng ngân sách nộp phí phá sản nếu HTX “có các tài sản khác”.

Thực tế, HTX B dù đã tạm ngưng hoạt động nhưng vẫn còn một số máy móc, thiết bị. Dù vậy, tòa vẫn lúng túng bởi quy định trên của luật chưa rõ ràng. Chẳng hạn, “tài sản khác” có giá trị tối thiểu là bao nhiêu, có cần xác định tính thanh khoản của tài sản hay không? Thực tế, nếu giá trị tài sản nhỏ hơn nhiều so với phí phá sản hay tài sản thuộc loại không thể bán thì sao? Trình tự, thủ tục thực hiện phí phá sản do ngân sách tạm ứng ra sao?

Theo Thẩm phán Nguyễn Công Phú, Điều 21 Luật Phá sản cần bổ sung rõ các điểm trên. Ngoài ra, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng theo thông báo của tòa trước và sau khi tòa thụ lý đơn, trừ trường hợp người nộp đơn là người lao động. Bổ sung thêm quy định phí phá sản sẽ được hoàn trả cho người tạm ứng không phải là DN, HTX bị phá sản từ tài sản của DN, HTX bị phá sản…

Xem lại quyền nộp đơn yêu cầu

Ông Ngô Cường (Vụ Hợp tác Quốc tế – TAND Tối cao) góp ý: Pháp luật của phần lớn các nước đều quy định các tội phạm về phá sản. Việc xác định ai là người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có ý nghĩa rất quan trọng. Ví dụ những người quản lý DN đã không nộp đơn theo đúng quy định khi công ty của họ ngừng thanh toán nợ, làm thiệt hại cho các chủ nợ thì có thể bị xem xét xử lý về hình sự. Vì thế, khi sửa đổi Luật Phá sản cần cân nhắc về vấn đề này.

Cũng theo ông Cường, cần xem xét lại về chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong một số trường hợp. Chẳng hạn, đối với DNNN thì nên giao quyền nộp đơn yêu cầu cho cơ quan có chức năng giám sát hoạt động của DN đó thay cho đại diện chủ sở hữu (Điều 16 Luật Phá sản). Đồng thời, cũng nên xem xét bỏ quy định về quyền nộp đơn của người lao động (Điều 14 Luật Phá sản) bởi lẽ quy định này có thể không phù hợp với tâm lý người lao động. Thông thường họ không muốn mất việc làm, do đó không lẽ họ lại yêu cầu “xóa bỏ” nơi họ làm việc.

Một chuyện khác, TAND Tối cao cho rằng khoản 1 Điều 13 Luật Phá sản chỉ quy định cho các chủ nợ “không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần” quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX. Như vậy là không công bằng và làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ của chủ nợ “có bảo đảm”. Trong khi đó, việc cho chủ nợ “có bảo đảm” quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ góp phần sớm phát hiện khả năng mất thanh toán của DN, HTX. Tòa có thể can thiệp sớm, giúp DN, HTX phục hồi hoạt động kinh doanh…

Ngoài ra, Luật Phá sản quy định người lao động không được tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để thực hiện. Việc cử người đại diện trong luật quy định rất phức tạp, khó thực thi và gây ra nhiều khó khăn cho người lao động, cần xem lại để không vô hiệu hóa quy định này. Cạnh đó, nên bổ sung thêm quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản của các cơ quan quản lý chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan Bảo hiểm tiền gửi, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước… Vì đây là các cơ quan giám sát hoạt động của DN hoạt động trong những lĩnh vực này nên sẽ sớm phát hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán của DN.

Còn cứng nhắc

Khoản 1 Điều 27 Luật Phá sản quy định kể từ thời điểm tòa thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản, tất cả bản án mà theo đó DN mắc nợ có nghĩa vụ thi hành đều bị tạm đình chỉ. Quy định này cơ bản là đúng nhưng còn cứng nhắc, không hợp lý trong một số trường hợp.

Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

Không mở thủ tục phá sản

Nên quy định cụ thể các trường hợp tòa ra quyết định không mở thủ tục phá sản, trong đó bao gồm các trường hợp sau:

Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không nộp tiền tạm ứng phí phá sản.

Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (không phải là DN phá sản) rút đơn yêu cầu.

DN không chấp hành đúng pháp luật kế toán (không lập sổ sách, chứng từ kế toán đầy đủ theo quy định) nên không có căn cứ xác định DN mất khả năng thanh toán nợ là do kinh doanh thua lỗ hay do cố ý làm thất thoát tài sản.

Vắng mặt đại diện hợp pháp của DN mà kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán của DN, HTX không còn làm việc tại DN, HTX hoặc còn đang làm việc nhưng từ chối tham gia tố tụng.

Thẩm phán NGUYỄN CÔNG PHÚ,
Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM

HOÀNG YẾN

(Nguồn : Báo pháp luật Tp.HCM)

QUY ĐỊNH VIỆC MUA, BÁN NGOẠI TỆ TIỀN MẶT CỦA CÁ NHÂN VỚI TỔ CHỨC TÍN DỤNG ĐƯỢC PHÉP

Ngày 29/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 20/2011/TT-NHNN quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép

 

Ngày 29/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 20/2011/TT-NHNN quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với tổ chức tín dụng được phép

Theo Thông tư, cá nhân là công dân Việt Nam khi ra nước ngoài với mục đích; học tập, chữa bệnh, công tác, du lịch, thăm viếng được mua ngoại tệ tiền mặt tại tổ chức tín dụng được phép để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bản thân và trẻ em chung hộ chiếu với cha hoặc mẹ bao gồm tiền ăn, tiền tiêu vặt, tiền đi lại ở nước ngoài. Hạn mức được mua là 100USD/1 người/1 ngày hoặc các loại ngoại tệ khác có giá trị tương đương trong khoảng thời gian lưu trú ở nước ngoài là 10 ngày.

Cá nhân khi muốn mua ngoại tệ với mục đích nêu trên có trách nhiệm xuất trình đầy đủ các chứng từ, giấy tờ cần thiết theo quy định của tổ chức tín dụng được phép và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các loại giấy tờ, chứng từ đã xuất trình.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 15/10/2011.

MTHT

(Theo websize của Bộ Tài Chính)